Top 8 # Đơn Xin Gia Hạn Thử Việc Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Toiyeucogaihalan.com

Đừng Bao Giờ Gia Hạn Hợp Đồng Thử Việc

Qua ngày hôm sau, bà B. gửi email cho giám đốc, xin được tiếp tục thử việc và hứa sẽ cố gắng hơn. Nếu vẫn không đạt yêu cầu sẽ “chịu mọi quyết định của công ty”.

Trước sự năn nỉ của bà B., giám đốc công ty đã chấp nhận kéo dài thời gian thử việc thêm khoảng 2 tuần nữa. Nhưng trong những ngày thử việc sau đó, bà B vẫn tiếp tục thể hiện sự không phù hợp, kém hiệu quả. Trưởng bộ phận nơi bà B thử việc có văn bản gửi giám đốc công ty, kiến nghị không tiếp nhận bà B. trong bộ phận pháp lý.

Ngày 4-5-2009, sau thời gian 79 ngày ( cũng là đúng ngày thứ 60 thử việc thực tế, vào làm việc tại công ty), công ty T. ra “Thông báo không chấp nhận tuyển dụng” bà B. sau thời gian thử việc. Qua hôm sau, bà B. đã bàn giao hồ sơ, kết thúc thời gian thử việc và không vào làm việc nữa. Trước khi nghỉ hẳn, bà B. còn gửi email chào và cám ơn mọi người trong công ty, thông báo “hôm nay là ngày làm việc cuối cùng” của mình.

Sự việc tưởng chừng như đã xong thì khoảng hơn một năm sau, công ty T. nhận được văn bản của tòa án, thông báo về việc bà B. kiện công ty vì đã “đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật” đối với bà.

Theo bà B., luật qui định thời gian thử việc đối với công việc có trình độ chuyên môn cao (như của bà) là 60 ngày. Trong khi đó, thời gian từ khi bà vào thử việc đến khi nhận được thông báo không chấp nhận tuyển dụng là 2 tháng 3 tuần (79 ngày).

Mặt khác, theo qui định tại khoản 4 điều 7 nghị định 44/2003 thì “khi hết thời gian thử việc nếu đạt yêu cầu hai bên phải tiến hành ký hợp đồng lao động, hoặc người lao động không được thông báo mà vẫn tiếp tục làm việc thì người đó đương nhiên được làm việc chính thức”. Do đó, bà B. cho rằng mình đã là nhân viên chính thức của công ty sau khi hết thời gian 60 ngày thử việc. Và vì vậy, việc công ty không tuyển dụng bà, không ký hợp đồng lao động chính thức mà cho bà nghỉ như trên là hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.

Trong đơn kiện, bà B. đã yêu cầu công ty T. phải bồi thường 76 triệu đồng. Bao gồm: tiền lương trong những ngày không được làm việc ( tính từ tháng 5-2009 đến tháng 4-2010 (là thời điểm khởi kiện) là : 44 triệu đồng. Hai (2) tháng tiền lương 8 triệu đồng và khoản tiền bồi thường thêm để chấm dứt quan hệ lao động: 24 triệu đồng.

Tòa cho rằng thời gian thử việc 60 ngày bao gồm cả ngày nghỉ và ngày lễ

Trong quá trình giải quyết vụ án, công ty T. có văn bản nêu quan điểm công ty không đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bà B. Vì lẽ:

– Ngày 9-4-2009 (ngày thử việc thứ 53), công ty đã thông báo về kết quả thử việc không đạt yêu cầu của bà B. Việc kéo dài thời gian thử việc là theo đề nghị của chính bà B.

– Công ty có qui định thời gian thử việc là 60 ngày làm việc thực tế. Thời gian bà Bình làm việc tại công ty tính từ 16-2-2009 đến 4-5-2009 là 59 ngày. Do đó, ngày 4-5-2009 công ty ra thông báo không tuyển dụng bà B. là đúng luật.

Cũng trong quá trình này, tôi (với tư cách là luật sư của công ty T.) đã 2 lần gửi văn bản đề nghị Bộ LĐTBXH giải thích rõ “thời gian thử việc không quá 60 ngày” được hiểu như thế nào: có bao gồm cả ngày lễ, ngày chủ nhật và ngày nghỉ (thứ bảy) của công ty không? Mặt khác, việc công ty qui định “thời gian thử việc 60 ngày không bao gồm ngày lễ, ngày chủ nhật có đúng pháp luật hay không?

( Cá nhân tôi cho rằng thời gian thử việc nên tính theo ngày thực tế. Vì người thử việc chưa phải là “người lao động” hiểu theo nghĩa qui định tại Bộ luật lao động, nên về nguyên tắc chưa thể có chế độ trọn vẹn. Việc người thử việc nghỉ ngày chủ nhật, ngày lễ mang tính ngẫu nhiên, không thể tính vào thời gian thử việc. Chẳng hạn so sánh với trường hợp thử việc đối với lao động đơn giản (như lao công), thời gian thử việc không quá 3 ngày. Chẳng lẽ nếu ngày vào thử việc rơi vào thứ bảy, chủ nhật rồi tiếp là ngày lễ – thì xem như đã thử việc xong hay sao?- Ryan Tran)

Rất đáng tiếc là Bộ LĐTBXH đã hoàn toàn im lặng, không có văn bản trả lời hay hướng dẫn gì về những thắc mắc nêu trong hai công văn của tôi.

Sau đó, lần lượt TAND quận Tân Bình và TAND chúng tôi xét xử sơ thẩm và phúc thẩm vụ án này đều tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà B., cho rằng công ty T. đã có hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật đối với bà B. Lý giải, tòa cho rằng 60 ngày thử việc theo tính theo qui định tại Bộ luật dân sự về thời hạn (?). Mặt khác, do bà B. nói rằng bà đã không nhận được văn bản của công ty qui định 60 ngày thử việc là ngày làm việc thực tế, trong khi công ty cũng không có bằng chứng chứng minh đã giao qui định đó cho bà B. Nên xem như công ty … không có lý !

Bài học kinh nghiệm : không nên gia hạn thời gian thử việc

Vụ án trên chắc chắn để lại cho phía công ty T. nhiều ấm ức. Vì lẽ việc công ty kéo dài thời gian thử việc thêm khoảng 2 tuần hoàn toàn xuất phát từ sự “năn nỉ” từ phía người thử việc, trong khi thực tế người thử việc đã thể hiện sự không phù hợp, kém hiệu quả. Công ty cũng hoàn toàn không có ý “lợi dụng” mà xuất phát từ sự “tốt bụng” đối với người thử việc.

Thứ nữa, trên thực tế sau thời gian thử việc nêu trên, bà B. đã chủ động không vào công ty làm việc nữa, cũng không hề có ý kiến khiếu nại gì lên giám đốc công ty về việc mình bị từ chối vào làm việc chính thức. Vậy mà hơn một năm sau, bà B. lại khởi kiện, đòi công ty phải trả toàn bộ số tiền lương cho suốt một năm trời mình không có mặt, không làm việc tại công ty (dưới tên gọi là “tiền trả cho thời gian không được làm việc”. Trong khi tại Bộ luật lao động qui định rõ người lao động tự ý nghỉ việc liên tục quá 5 ngày hoặc cộng dồn quá 20 ngày trong một năm thì bị sa thải). Rõ ràng, công ty đã phải trả giá quá đắt cho sự tốt bụng của mình.

Ở phương diện ngược lại, có thể thấy bà B. đã nắm vững và vận dụng pháp luật một cách “quá tốt” để đem lại lợi ích cho mình.

Trong khuôn khổ bài viết này, tôi không có ý định gièm pha bà B. hoặc bày tỏ thái độ về sự công minh hay không công minh của tòa án. Vì tòa án có quyền đưa ra phán quyết, dựa trên sự hiểu biết chủ quan của mình. Tuy nhiên, tôi thực sự nghĩ rằng Bộ luật lao động hiện nay chưa có qui định rõ ràng về việc “thời gian thử việc không quá 60 ngày” phải được hiểu như thế nào.

Bài học kinh nghiệm mà các doanh nghiệp rút ra từ vụ án trên là: không nên gia hạn thời gian thử việc. Nhất thiết phải có quyết định chính thức về việc có nhận người thử việc vào làm chính thức hay không trong thời hạn không quá 60 ngày. Cần lưu ý là: thời gian thử việc không quá 60 ngày, bao gồm cả ngày nghỉ, ngày lễ và ngày nghỉ. Theo qui định của pháp luật, trong thời gian thử việc, vào bất kỳ lúc nào, cả hai bên đều có quyền chấm dứt việc thử việc mà không cần nêu lý do.

Luật sư TRẦN HỒNG PHONG

Anh cho em hỏi về vấn đề này, vì bên công ty em cũng có vài trường hợp “gia hạn thời gian thử việc”; Cũng gần như câu chuyện phía dưới: khi người lao động không đạt chuyên môn thì bên công ty đề nghị thử việc thêm để NV biết mà cố gắng hơn nữa (chỉ vài trường hợp đặc biệt yếu thôi; các trường hợp khác nếu trung bình thì vẫn nhận ký chính thức và thực hiện đào tạo thêm)

Nhưng phía công ty để đảm bảo nên có soạn một văn bản nội dung là Gia hạn thời gian thử việc (GĐ duyệt việc đồng ý gia hạn) – Trưởng phòng NS và cấp Quản lý sẽ nói chuyện trực tiếp với nhân viên về năng lực qua thời gian thử việc. Sẽ đề xuất NV ký gia hạn thêm 02 tháng, vẫn giữ mức lương. Nếu NV đồng ý thì ký tên, nếu không thì chấm dứt thời gian thử việc do không đáp ứng chuyên môn (phần lớn ứng viên cũng không ý kiến và xem như cơ hội để cố gắng) !

Văn bản gia hạn này có đầy đủ chữ ký của các bên, mức lương thử việc lần 2 (như cũ), thời gian thử việc lần 2 ( 02 tháng).

Như vậy công ty có làm sai luật gì không và có gặp phải tình trạng như bà B trong câu chuyện phía dưới không? Theo em thì phía công ty đã rất “thông cảm” và “tạo cơ hội” cho NV rồi – nhưng quan trọng là về Luật thôi.

Vấn đề này đã được Cộng đồng HCMG mổ xẻ khá chi tiết và rõ ràng trong các topic trước đây, mình xin được nhắc lại, Luật Lao động đã quy định: “Không quá 60 ngày đối với công việc có chức danh nghề cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật từ cao đẳng trở lên; Không quá 30 ngày đối với công việc có chức danh nghề cần trình độ chuyên môn kỹ thuật trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ; Không quá 6 ngày làm việc đối với công việc khác.” cho nên Cty kéo dài thêm TGTV quá 60 ngày đối NLĐ là sai luật cho dù có sự thỏa thuận giữa 2 bên, có nghĩa là biên bản thỏa thuận này đã bị vô hiệu hóa ngay từ đầu.

Nhưng như thế không phải là không còn cách để thực hiện, vì có những vị trí quan trọng trong Cty mà thời gian 60 ngày vẫn chưa đủ để nhìn nhận và đánh giá chính xác năng lực của nhân sự thử việc, thì Cty sẽ áp dụng một trong các cách “lách” luật như sau:

– 1. Cty ký ngay HĐLĐ ngắn hạn 1-3 tháng đối với Nhân sự ngay khi tuyển dụng. – 2. Hết thời gian thử việc 60 ngày, Cty sẽ ký HĐLĐ ngắn hạn 1-2 tháng để tiếp tục đánh giá. – 3. Hết thời gian thử việc 60 ngày, Cty và Nhân sự đồng ý đánh giá TV không đạt. Nhân sự làm đơn tự nguyên xin được thử việc thêm. – 4. Hết thời gian thử việc 60 ngày, Cty và Nhân sự đồng ý đánh giá TV không đạt. Nhân sự sẽ nghỉ việc ở nhà vài ngày và sau đó Cty tuyển dụng tiếp với HĐTV mới. – 5. Cty và Nhân sự thỏa thuận thời gian thử việc là 60 ngày làm việc thực tế (theo tinh thần CV 35 ngày 7/1/2009/ BLĐTBXH về việc hướng dẫn chi tiết về cách tính thời gian thử việc cho 1 các DN Tp. HCM)

Tuy nhiên, các cách trên vẫn có nhược điểm nếu chúng ta “soi” kỹ vào Luật LĐ:

-1. Luật quy định: “Không được giao kết hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng để làm những công việc có tính chất thường xuyên từ 12 tháng trở lên, trừ trường hợp phải tạm thời thay thế người lao động đi làm nghĩa vụ quân sự, nghỉ theo chế độ thai sản, ốm đau, tai nạn lao động hoặc nghỉ việc có tính chất tạm thời khác”. Ta thấy chắc chắn rằng những vị trí mà cty tuyển dụng khi có TGTV 2 tháng đều không thể đánh giá trong một thời gian ngắn là hoàn thành công việc.(PA 1 và 2)

-2. Khi Cty sử dụng NLđ thì phải ký HĐLĐ cho dù là HĐ ngắn hạn. (PA3) -3. Luật không quy định về việc Cty ký bao nhiêu HĐTV đối với nhân sự.

Cách 4 – 5 có thể là khả thi nhất đối với Cty, tuy nhiên cũng cần chú ý rằng công văn 35/2009 vẫn là 1 văn bản dưới luật, không phải là văn bản bắt buộc áp dụng chung trừ khi được Luật hóa thành văn bản quy phạm; hoặc nếu Cty không hoàn thành các nghĩa vụ BH bắt buộc, trả lương đúng…(PA4) thì vẫn là một rủi ro nho nhỏ đối với Cty.

Tốt nhất là anh TUYỆT ĐỐI KHÔNG GIA HẠN HĐTV, để tránh các rắc rối về sau.

Thân mến,

Nhân tiện câu chuyện này, cho mình hỏi thêm với cả nhà:

Luật lao động mới ra đời có điều chỉnh và tổng hợp lại các văn bản pháp luật trước đây, trong đó nghị định 44/003/NĐ-CP là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên mình đọc đi đọc lại luật lao động mới thì không thấy đề cập đến vấn đề khoản 4 điều 7 nghị định 44/2003 đã nêu ở đâu cả “khi hết thời gian thử việc nếu đạt yêu cầu hai bên phải tiến hành ký hợp đồng lao động, hoặc người lao động không được thông báo mà vẫn tiếp tục làm việc thì người đó đương nhiên được làm việc chính thức”.

Tiếp tục đi lục tìm lại vấn đề về khoản 4 điều 7 nghị định 44/2003 còn hiệu lực hay hết vì rõ ràng trong luật mới và nghị định mới ban hành thì không thấy nói, thì kết quả ở trang web sau báo: Nghị định 44/2003 đã hết hiệu lực (hoặc các bạn vào google gõ nội dung “nghị định 44/2003 còn hiệu lực không” là ra ngay đường dẫn này đầu tiên):

http://www.moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=21582

Cả nhà mình tư vấn giúp giùm với,

Cảm ơn cả nhà nhiều,

HTN *** Chào cả nhà, Theo như thắc mắc của các bạn. Theo quan điểm của mình có vài ý như sau: Thứ nhất: “khi hết thời gian thử việc nếu đạt yêu cầu hai bên phải tiến hành ký hợp đồng lao động, hoặc người lao động không được thông báo mà vẫn tiếp tục làm việc thì người đó đương nhiên được làm việc chính thức”. Điều này được quy định tại khoản 1 Điều 29 BLLĐ 2013, cũng được quy định tại điều 32 của Luật cũ. Nhưng cả 2 BL này đều quy định ” Khi hết thời gian thử việc đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động phải giao kết HĐLĐ với người LĐ”.Với quy định này chúng ta cần phải hiểu theo hai ý đồ của nhà làm luật:

Một, khi hết thời hạn thử việc mà người lao động đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động bắt buộc phải nhận người lao động vào làm việc chính thức.

Hai, việc khoản 4 điều 7 NĐ 44/2003 có quy định thêm ý “người lao động không được thông báo mà vẫn tiếp tục làm việc thì người đó đương nhiên được làm việc chính thức”.ở đây ý đồ của nhà làm luật mang một ý nghĩa nhân đạo. vì nhà làm luật đã giúp người lao động đề phòng sự lợi dụng của người sử dụng lao động. Sử dụng người lao động làm việc như một người lao động bình thường mà lại trả với mức lương ” thử viêc”. Mặc nhiên khi đã hết thời gian thử việc mà vẫn tiếp tục làm việc thì người thử việc sẽ là người lao động chính thức hưởng những quyền lợi như một người lao động thực thụ.

Mặt khác nhà làm luật muốn nhắc nhở người sử dụng lao động là phải kí kết hợp động lao động liền để tránh khỏi trường hợp sử dụng ngừời lao động nhưng không giao kết hợp đồng lao động sẽ bị xử phạt hành chính về lao động(Khoản 1 điều 5 NĐ 95/2013).

Còn việc bạn thắc mắc khoản 4 điều 7 NĐ 44/2003 còn hiệu lực hay không? Theo mình là còn hiệu lực. Vì theo như những văn bản hướng dẫn BLLĐ 2013 chưa có một văn bản hướng dẫn điều luật này và cũng chưa có một văn bản nào bãi bỏ hiệu lực của nó. Vậy nó vẫn còn hiệu lực.( VBQPPL hết hiệu lực khi có một văn bản khác ra đời và thay thế cho văn bản đó).

Thứ hai, Về câu hỏi của SteveDat. Theo mình nghĩ : Việc công ty với người lao động kí kết gia hạn thêm thời gian thử việc là được. Theo Khoản 1 Điều 27 BLLĐ 2013 quy định chỉ được thử việc 1 lần duy nhất. Nhưng theo mình nghĩ cách quy định của nhà làm luật là trường hợp người lao động đã làm việc đạt yêu cầu trong thời gian thử việc. Lúc này chỉ được thử việc một lần, tránh trường hợp người lao động đã đạt yêu cầu nhưng người sử dụng lợi dụng việc thử lần 2, 3… thiệt cho người lao động. Còn đối với trường hợp người lao động việc làm không đạt yêu cầu thì người sử dụng có quyền không tuyển người lao động nhưng cũng có quyền gia hạn ( miễn thực hiện đúng nguyên tắc tự do thảo thuân là được)

HỨA THỊ CẨM NGUYÊN KHOA LUẬT KINH TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ- LUẬT (ĐHQGTPHCM).

*** Ủa, sao Công ty có thể thua kiện được, khi mà có bằng chứng : “Qua ngày hôm sau, bà B. gửi email cho giám đốc, xin được tiếp tục thử việc và hứa sẽ cố gắng hơn. Nếu vẫn không đạt yêu cầu sẽ “chịu mọi quyết định của công ty”.”

Ra tòa chỉ cần “Nhân chứng”, “vật chứng” là yên tâm, trong khi Công ty có bằng chứng “tự nguyện” của đương sự mà.

Best regards Nguyen Van Thu

Chủ đề này hay nhưng không phải ai cũng đủ kiên nhẫn để đọc hết các trao đổi này.

Bài viết được Google đề xuất đọc kèm:

Gia Hạn Hợp Đồng Thử Việc Và Trả Lương Khi Nghỉ Trong Thời Gian Thử Việc

Em muốn được tư vấn về vấn đề gia hạn hợp đồng thử việc và giải quyết lương thử việc. Vấn đề của em như sau: Em vào làm thử việc tại công ty A, vị trí Nhân viên kế toán với thỏa thuận thời gian thử việc 1 tháng bắt đầu từ 13/02/2019 đến hết ngày 12/03/2019 và trong thời gian thử việc nếu nghỉ thì sẽ không được chi trả lương.

Sau khi hết hợp đồng thử việc ngày 16/03/2019, công ty có đề nghị với em gia hạn hợp đồng thử việc đến cuối tháng 3/2019, em không phản đối nhưng cũng như chưa ký phụ lục vấn đề này. Cảm thấy công việc không phù hợp với bản thân, ngày 18/03/2019 em có viết đơn xin thôi việc từ ngày 22/03/2019. Đến chiều, phòng Hành chính nhân sự báo là đơn xin nghỉ việc của em đã được duyệt em bắt đầu nghỉ từ ngày 19/03/2019 và tiền lương của em không được chi trả vì lí do em nghỉ việc trong thời gian thử việc.

Phòng Hành chính nhân sự lại nói thêm là em có kí cam kết là sẽ tuân thủ tất cả những quy định, quy chế của công ty nên vấn đề gia hạn em phải tuân theo, nhưng em đã đọc rất kĩ quy định, quy chế không có nói thêm về vấn đề gia hạn này.

Vậy trong trường hợp này thì việc gia hạn hợp đồng thử việc có căn cứ không và theo quy định của pháp luật em có được chi trả lương không?

Thứ nhất, về tính hợp pháp của hoạt động gia hạn hợp đồng thử việc

Căn cứ Điều 27 Bộ luật Lao động 2012 về thời gian thử việc quy định: Thời gian thử việc căn cứ vào tính chất và mức độ phức tạp của công việc nhưng chỉ được thử việc 1 lần đối với một công việc và không quá 60 ngày đối với công việc có chức danh nghề cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật từ cao đẳng trở lên.

Như vậy, pháp luật không quy định về việc gia hạn hợp đồng thử việc. Tuy nhiên, theo nội dung quy định trên, việc thỏa thuận gia hạn về việc gia hạn thử việc và không quá thời gian thử việc tối đa vẫn phù hợp với quy định của pháp luật.

Vị trí tuyển dụng của công ty yêu cầu trình độ cao đẳng trở lên, bạn thử việc ở vị trí này nên thời gian thử việc có thể áp dụng tối đa là 60 ngày. Khi nhận được thông báo gia hạn thử việc sau thời gian thử việc 1 tháng, bạn không phản đối và tiếp tục làm việc nên việc gia hạn này không trái với quy định của pháp luật.

Thứ hai, về các quyền lợi mà bạn được nhận

Điều 28 Bộ luật lao động quy định về tiền lương trong thời gian thử việc quy định: Tiền lương của người lao động trong thời gian thử việc do hai bên thoả thuận nhưng ít nhất phải bằng 85% mức lương của công việc đó.

Điều 29 Bộ luật lao động quy định về kết thúc thời gian thử việc quy định: Trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền huỷ bỏ thoả thuận thử việc mà không cần báo trước và không phải bồi thường nếu việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thoả thuận.

Như vậy, căn cứ vào quy định trên trong khoản thời gian thử việc, nếu bạn và bên người sử dụng lao động có thỏa thuận về lương thử việc cao hơn 85% lương của công việc Nhân viên kế toán thì sẽ áp dụng lương mà hai bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì số lương thấp nhất bạn được nhận bằng 85% lương của công việc Nhân viên kế toán.

Vấn đề thỏa thuận về việc không được nhận tiền lương trong thời gian thử việc không có giá trị pháp lý .

Đơn Xin Gia Hạn Kiểm Tra Thuế

Đơn xin gia hạn kiểm tra thuế là văn bản của cá nhân, tổ chức vì lý do bất khả kháng nào đó có yêu cầu với Chi cục Thuế quận/huyện lùi thời gian kiểm tra thuế trong một khoảng thời gian nhất định nào đó.

Luật sư Tư vấn trực tuyến – Gọi ngay 1900.0191

Mẫu Đơn xin gia hạn kiểm tra thuế

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

———-o0o———-

Hà Nội, ngày…..tháng…..năm…..

ĐƠN XIN GIA HẠN KIỂM TRA THUẾ

Kính gửi: CHI CỤC THUẾ QUẬN/HUYỆN…………..

Tôi tên là………………………………. Sinh ngày:…………………..

Giấy chứng minh nhân dân số: ……………… cấp ngày…/…/… tại………………

Hộ khẩu thường trú: ……………………………………..

Chỗ ở hiện nay: …………………………………………..

Hiện đang là Người đại diện theo pháp luật Công ty…………………. (có thể là Đại diện theo ủy quyền hoặc một chức vụ nào đó…….)

Trụ sở công ty:…………………………………………………..

Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số: … do Phòng đăng ký kinh doanh – Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh/thành phố………….. cấp ngày …/…/…

Mã số thuế: ………………………………………………….

Số điện thoại: ……………………………………………..

Tôi xin trình bày với Qúy cơ quan một nội dung như sau:

Kế toán của Công ty chúng tôi đang trong thời gian nghỉ sinh theo chế độ thai sản của pháp luật (Có tài liệu đính kèm)

Theo quy định tại các khoản 2, 3 Điều 51 Luật Kế toán 2015, người làm kế toán có quyền độc lập về chuyên môn, nghiệp vụ kế toán và có trách nhiệm tuân thủ các quy định của pháp luật về kế toán, thực hiện các công việc được phân công và chịu trách nhiệm về chuyên môn, nghiệp vụ của mình. Bởi vậy, để khách quan, thuận tiện và chính xác trong quá trình kiểm tra thuế, rất cần thiết phải có sự tham gia trực tiếp của người làm kế toán của công ty.Theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 80 Luật quản lý thuế năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2012, 2014):

“1. Thủ trưởng cơ quan quản lý thuế ra quyết định kiểm tra thuế có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

c) Gia hạn kiểm tra trong trường hợp cần thiết;”

Bởi vậy, bằng công văn này, Công ty chúng tôi kính đề nghị Quý Chị cục gia hạn thời gian kiểm tra thuế tại công ty chúng tôi.

Thời gian đề nghị gia hạn: đến ngày …/…/…

Công ty chúng tôi cam kết sự trung thực về các thông tin kể trên và sẽ hợp tác tốt nhất với quý chi cục tại thời điểm kiểm tra thuế. Kính mong Quý Chi cục tạo điều kiện giúp đỡ Công ty.

Kèm theo đơn này, tôi xin gửi tới Qúy Công ty các tài liệu sau:

– Danh sách báo giảm thai sản;

– Giấy ra viện;

– Giấy khai sinh;

– Hợp đồng lao động của kế toán

Tôi xin trân trọng cảm ơn!

Người làm đơn

(Kí và ghi rõ họ tên)

Rate this post

Mẫu Đơn Xin Gia Hạn Sử Dụng Đất

Người sử dụng đất hiện tại chính là người cần làm mẫu đơn xin gia hạn sử dụng đất khi việc sử dụng đất của mình đã hết thời hạn. Việc làm đơn xin gia hạn sử dụng đất được gửi lên cơ quan chức năng có thẩm quyền để được xem xét xử lý sao cho đúng quy định của pháp luật. Người dân cần phải phối hợp với các cơ quan chức năng để giải quyết vấn đề sử dụng đất phù hợp và đúng với quy định của nhà nước.

Cùng với mẫu đơn xin gia hạn sử dụng đất là đơn xin giao lại đất sử dụng khi các cá nhân muốn giao lại phần đất trước đây được cấp để kinh doanh hoặc trồng cây nông nghiệp, trong đơn xin giao lại đất cần nói rõ thông tin chi tiết về khu đất muốn giao, mục đích xin giao lại đất, thời gian sử dụng khu đất,..

Về nội dung của mẫu đơn xin gia hạn sử dụng đất thì cần đảm bảo phải có một số nội dung chính như thông tin về người sử dụng đất, về diện tích đất xin được gia hạn sử dụng, thời gian xin gia hạn là bao lâu. Bên cạnh đó, người làm đơn cũng phải trình bày thêm lý do xin gia hạn của mình, các giấy tờ nộp kèm theo đơn xin gia hạn…

Để xây dựng một công trình trên mảnh đất mình vừa mua, bạn phải có đơn xin cấp phép xây dựng để việc xây dựng được hợp pháp. Việc sử dụng đơn xin cấp phép xây dựng còn hạn chế những kiện tụng không đáng có trong quá trình xây dựng.

Việc trình bày mẫu đơn xin gia hạn sử dụng đất dù là đất nông nghiệp hay đất thuê thì đều cần phải cụ thể, rõ ràng và chi tiết. Các nội dung trong mẫu đơn đề nghị này khi trình bày cần trình bày theo các ý chính rõ ràng để người đọc có thể nắm bắt được các nội dung chính. Bên cạnh đó, các đơn vị chức năng sau khi nhận được đơn xin gia hạn sử dụng đất của công dân thì cần tiếp nhận, điều tra và xử lý theo đúng quy định của pháp luật và nguyện vọng của người dân sao cho hợp lý nhất.

Cách trình bày mẫu đơn xin gia hạn sử dụng đất chi tiết như sau:

Về thông tin của người sử dụng đất: Cần trình bày họ và tên của người sử dụng đất, địa chỉ của người này cho rõ ràng.

Thông tin về diện tích đất xin gia hạn sử dụng: Người làm đơn nêu rõ vị trí của mảnh đất đó tại địa phương nào, diện tích là bao nhiêu, mục đích sử dụng trước nay là gì. Tiếp theo là thời hạn sử dụng trước kia của mảnh đất, nguồn gốc sử dụng và các tài sản gắn liền với thửa đất do người dân tạo nên.

Về thời gian xin gia hạn quyền sử dụng thì người làm đơn cần ghi rõ thời gian đó là bao lâu, từ ngày tháng năm nào đến ngày tháng năm nào cụ thể.

Lý do xin gia hạn cũng phải đề bạt rõ ràng, ngắn gọn nhưng phải đầy đủ ý nghĩa và nguyện vọng của người làm đơn.

Giấy tờ liên quan kèm theo thì ngoài giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích đất này thì bạn có thể kèm theo các giấy tờ khác có liên quan về tài sản trên mảnh đất… để cơ quan chức năng có căn cứ rõ ràng để làm việc.

Mẫu đơn xin gia hạn đất được sử dụng trong trường thuê đất sắp hết hạn sử dụng, tải về mẫu đơn xin gia hạn sử dụng đất để tiếp tục dùng đất vào các công việc khác nhau