Cập nhật thông tin chi tiết về Sự Cần Thiết Và Cách Dùng Kanji Trong Tiếng Nhật mới nhất trên website Toiyeucogaihalan.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Sự cần thiết của Kanji Tại sao phải nát óc để viết ra 2 chữ: 寿司 trong khi đơn giản chỉ cần viết すし là cũng có thể hiểu. Hầu hết những ai đã từng học tiếng Nhật đều gặp khó khăn trong cách dùng Kanji trong tiếng Nhật . Tuy nhiên bạn càng học tiếng Nhật lâu bạn sẽ càng hiểu ra sự cần thiết của Kanji.
Bởi vì:
1. Khi bạn bắt đầu tập viết 1 câu hoàn chỉnh, hãy nhìn lại đi Hiragana giờ lại là chướng ngại Đúng là như vậy, có thể khi bạn học từ mới, hiragana giúp bạn học dễ dàng hơn. Tuy nhiên khi bạn đã đạt đến trình độ để viết ra những câu văn hoàn chỉnh. Lúc đó nếu viết bằng Hiragana, bạn có thể sẽ ko hiểu những gì mình viết ra. Hãy nhìn 2 câu bên dưới và so sánh:
* * ひらがなで書いた文書が見にくいですね。
* * ひらがなでかいたぶんしょがみにくいですね。
Tiếng Nhật ko có dấu cách trong câu văn. Kanji giúp phân biệt giữa các từ làm cho câu văn dễ đọc hơn.
2. Kanji giúp phân biệt nghĩa của các từ có cùng cách đọc trong 1 đoạn văn Lấy luôn từ Kanji làm ví dụ. Nếu viết bằng Hiragana bạn sẽ ko biết được nghĩa thực sự của nó là gì.
Bởi vì:
* * かんじ → 漢字
* * かんじ → 感じ
* * かんじ → 幹事
* * かんじ → 監事
3. Muốn đọc nhanh hãy học Kanji Muốn đọc nhanh bạn cần phải biết cách cho đầu óc của bạn làm quen với các cụm từ. Đó là 1 hình thức nhớ theo hình ảnh.
Ngay cả với các đoạn văn viết bằng tiếng Việt hoặc tiếng Anh, muốn đọc, hiểu nhanh được ý nghĩa của 1 đoạn, bạn phải tập nhận biết những cụm từ cùng 1 lúc. Kanji giúp bạn cô đọng ý nghĩa, mắt bạn ko cần phải lướt qua 1 đoạn dài để hiểu ý nghĩa của 1 từ nếu viết bằng Kanji.
4. Dùng Kanji tiết kiệm giấy Trung bình sẽ mất khoảng 2-4 chữ Hiragana để diễn đạt ý nghĩa của 1 chữ Kanji.
5. Viết tiếng Nhật bằng Kanji chắc chắn là oai hơn Người ta sẽ phải trầm trồ thán phục khả năng tiếng Nhật của bạn nếu bạn viết 1 đoạn văn hay 1 bức thư bằng Kanji.
Phải nói thật là chữ Kanji nhìn rất đẹp. Mỗi chữ nhìn như là 1 bức tranh sinh động mang nhiều ý nghĩa. Có lẽ chính vì lẽ đó mà Kanji được sử dụng chủ yếu để viết thư pháp.
Vì Sao Tiếng Nhật Dùng 3 Loại Chữ:kanji, Hiragana, Katakana?
Các bạn chắc đều biết tiếng Nhật sử dụng ba loại chữ là Kanji, Hiragana và Katakana. Nhiều người thắc mắc không hiểu tại sao lại phải dùng nhiều như vậy, sao không dùng chữ romaji (chữ la tinh) như tiếng Việt cho tiện? Học tiến Nhật để Hãy ăn (sai khiến)/ Bắt ăn / Cho ănBị bắt ăn (“tomaru”) và đơn giản hóa thành: Hôm nay tôi xin nói về vai trò của chữ viết và vai trò của 3 loại chữ Kanji, Hiragana, Katakana trong tiếng Nhật. Để có thể hiểu sâu về vai trò của chữ viết các bạn có thể tìm đọc quyển “Tiếng Việt Văn Việt Người Việt” của cố giáo sư Cao Xuân Hạo. Quay trở lại với tiếng Nhật: Tiếng Nhật ban đầu dùng chữ kanji để viết nhưng chữ kanji bộc lộ một số hạn chế, đó là trong khi tiếng Hán là tiếng đơn âm thì tiếng Nhật là ngôn ngữ chắp vá phải ghép vài âm tiết mới thành một từ, và từ này khi chia quá khứ, hiện tại, tương lai thì lại khác nhau. Do đó họ phải thêm vào chữ Hiragana để tiện việc chia như vậy. Tiếng Nhật sử dụng kết hợp chữ kanji để ghi ý nghĩa và chữ Hiragana để thực hiện chức năng ngữ pháp, ví dụ với từ “ăn” sẽ có các từ sau:
Chữ viết không phải là thứ có vai trò chính để ghi lại phát âm, mà vai trò chính là để đọc. Đọc chữ kanji (hay chữ Hán) sẽ nắm bắt được ý nghĩa nhanh hơn nhiều so với đọc chữ la tinh. Trong các ngôn ngữ châu Âu, tiếng Anh và tiếng Pháp không phải là ngôn ngữ ký âm (ghi lại đúng cách phát âm). Một từ tiếng Anh hay tiếng Pháp nếu bạn muốn biết cách đọc bạn phải tra từ điển (Ví dụ Monica phải đọc là Mo-nơ-cờ với trọng âm là “Mo”). Thế kỷ 18 đã có phong trào đòi cải cách tiếng Anh và tiếng Pháp sao cho cách viết đúng với cách phát âm, nhưng đều thất bại. Tương tự với tiếng Trung, người ta cố cải cách bằng cách bỏ chữ tượng hình và thay vào ký âm la tinh nhưng phần lớn độc giả đọc đều không hiểu hoặc với tốc độ rất chậm. Tiếng Việt là ngoại lệ vì phát âm tiếng Việt phong phú hơn nên ít gây hiểu lầm khi đọc hơn, tuy nhiên do không biết mặt chữ Hán nên nhiều người không giỏi tiếng Việt cũng như không biết nguồn gốc các từ trong tiếng Việt. Nếu bạn biết chữ Hán thì các bạn có thể thấy những từ như “quần”, “áo” cũng là chữ gốc hán, hay chữ “cắt” từ chữ “cát”, “thêm” là từ chữ “thiêm” (thêm vào) mà ra.
Chữ Kanji và Hiragana trong tiếng Nhật 食べる: 食べた: 食べて: 食べている: 食べられる: 食べさせる: 食べさせられる: Chữ Hiragana được tạo ra thế nào? Bằng cách sử dụng chữ Kanji và Hiragana như trên hệ thống chữ viết tiếng Nhật vừa đơn giản, vừa dễ hiểu mà vẫn thực hiện đầy đủ chức năng ngôn ngữ của nó.
Nếu là bạn thì bạn sẽ tạo ra chữ hiragana thế nào? ….. Đây là cách mà người Nhật làm:
Họ lấy chữ kanji mà có âm (kun’yomi hay on’yomi) bắt đầu bằng âm mà họ muốn tạo (ví dụ “to”, “ta”, …) rồi đơn giản hóa nó đi sao cho dễ viết. Ví dụ để tạo chữ “to” thì họ dùng chữ 止る 止(とまる) → と 世(せ) → せ 天(てん) → て 利(り) → り 安(あん) → あ 由(ゆ) → ゆ 太(た) → た 也(や) → や
) gồm có “hira” (Tên gọi Hiragana ( 平仮名 bình) và “gana” ( giả danh, nghĩa là “tên mượn tạm”) có nghĩa là chữ mượn tạm bằng cách làm đơn giản hóa (làm bằng xuống). Lý do khá đơn giản: (1) Dùng chữ kanji giúp việc đọc hiểu trở nên cực kỳ dễ dàng, (2) Chữ Hiragana không sẽ khó đọc vì không biết từ bắt đầu và kết thúc ở đâu, (3) Chữ kanji không hề khó học. Các bạn hãy xem 2 câu sau:
Việc phân biệt từ nào với từ nào cũng đã là việc khá khó khăn và mất thời gian. Nếu sử dụng kanji thì mọi việc trở nên đơn giản hơn rất nhiều: Sao không sử dụng toàn bộ là chữ Hiragana cho đơn giản và đỡ phải học chữ kanji? ははははなをかった。 たかがはらはなかがわらえきでさんぽしていた。 母は花を買った。 高河原は中河原駅で散歩していた。 Nhưng trong ngôn ngữ nói có dùng chữ kanji đâu mà vẫn hiểu nhau? Bởi vì ngôn ngữ nói có nhịp điệu và có sự ngắt âm phù hợp giúp người nghe có thể phân biệt rõ ràng các từ với nhau. Ví dụ câu trên có thể ngắt như sau: Haha wa, hana wo, katta. Takagahara wa, Nakagawara eki de, sanpo shite ita. Chữ Katakana ( Ngoài ra nhịp điệu trong ngôn ngữ nói là thứ quan trọng giúp truyền đạt điều muốn nói. Chữ Katakana trong tiếng Nhật 片仮名 , kata (“phiến”, một phần) + tên tạm) là chữ được tạo ra bằng cách lấy một phần (kata) của chữ kanji để làm “chữ viết tạm Katakana”. Các bạn có thể xem bảng sau (thuộc trang web Wikipedia):
Tiếng Nhật hiện đại sử dụng phổ biến Hán tự ( Hệ thống chữ viết tiếng Nhật kanji) – hiragana ( 平仮名 片仮名 ), và được viết dựa trên Hán tự thông dụng – Chính tả kana hiện đại. Số Ả rập và chữ Roma (Romaji – ký tự latinh) cũng được sử dụng khi cần thiết. Về cách đọc của Hán tự thì có cách đọc theo kiểu Trung Quốc (onyomi) và, cũng có cách đọc theo chữ Yamato (kunyomi), tùy theo thói quen mà sử dụng cách đọc nào là hợp lý. Không có phép chính tả chính xác một cách chặt chẽ và những tranh luận về việc có nên quy định một phép chính tả chính xác cùng với sự phản đối nó dần dần không còn được nhắc đến nữa. Hệ thống kana được phát triển để mô tả từ vựng ở vị trí trung tâm văn hóa. Do đó, kana luôn luôn phù hợp để viết ra hệ thống âm vị của phương ngữ khác. Phân loại chữ viết Hiragana – Katakana thì, hiện nay có 46 chữ được sử dụng Bảng chữ cái của tiếng Nhật, được viết bằng Hiragana, Katakana và Rōmaji. Bên trái là phần đơn âm (gồm 48 chữ, gồm cả 2 chữ hiếm là wi và we), bên phải là Youon nghĩa là âm kép (gồm 21 chữ). Trong số này, có chữ kana biểu thị âm kêu và âm nửa kêu bằng cách gắn 「゛」 (dấu âm kêu) và 「゜」 (dấu âm nửa kêu) (tham khảo phần Âm vị). Nguyên âm đôi được biểu thị đi kèm với 「ゃ」「ゅ」「ょ」 viết bằng chữ nhỏ và, phụ âm đôi được viết bằng chữ 「っ」 viết nhỏ. Còn những chữ như 「つぁ」「ファ」 , có âm đọc được thể hiện đi kèm với 「ぁ」「ぃ」「ぅ」「ぇ」「ぉ」 chữ nhỏ. Theo cách viết kana cổ, khác với ở trên, tồn tại những chữ như 「ゐ」「ゑ」 trong Hiragana và 「ヰ」「ヱ」 trong Katakana. Cũng có 「ー」 để biểu thị trường âm như ký hiệu bổ trợ. Hán tự có 1945 chữ Hán tự thông dụng, trong đó 1006 chữ được quy định là Hán tự được dạy cho học sinh phổ thông nhưng tại nơi công cộng thì, ngoại trừ Hán tự dùng cho tên người, có khoảng 2000 đến 3000 chữ Hán đang được sử dụng. Với bảng Chữ thông dụng của Hán ngữ hiện đại của Trung Quốc có 2500 chữ thông dụng và 1000 chữ gọi là Chữ thông dụng kế tiếp, do đó có thể nói rằng không có khoảng cách giữa số Hán tự được sử dụng thường xuyên hàng ngày của tiếng Nhật và tiếng Trung. Ở trong câu nói chung, ngoài việc viết pha trộn các Hán tự – Hiragana – Katakana như ở trên, Romaji – Số Ả Rập cũng được sử dụng cùng lúc khi cần thiết. Một cách cơ bản, đa số dùng Hán tự cho Hán ngữ, với phần biểu thị khái niệm chung của Hòa ngữ (như danh từ và gốc từ biến cách) thì dùng Hán tự, với yếu tố hình thức (như trợ từ – trợ động từ) và một phần của phó từ – từ nối thì dùng hiragana, Ngoại lai ngữ (trừ Hán ngữ) thì sử dụng katakana. Theo tài liệu chính thức thì cũng có trường hợp quy định chữ viết cụ thể, người dân bình thường cũng dùng theo theo cách đó. Tuy nhiên, không có phép chính tả chính xác chặt chẽ và sự linh động về chữ viết đang được chấp nhận rộng rãi. Tùy theo loại văn chương và mục đích mà có các cách viết sau:
さくらのはながさく/サクラの花が咲く/桜の花が咲く
sakura no hana ga saku (“Hoa anh đào nở”)
Lợi ích của việc viết trộn lẫn hệ thống chữ viết một cách đa dạng là ở chỗ từng khối từ được nắm bắt dễ dàng và rất có lợi để đọc nhanh. Từ đồng âm dị nghĩa bắt nguồn từ cấu tạo âm tiết đơn thuần của tiếng Nhật được phân biệt bằng Hán tự, số chữ có được cũng được rút ngắn, đó cũng là một lợi ích. Theo lịch sử, đã từng có chủ trương hủy bỏ Hán tự cũng như Quốc tự hóa (kana hóa) Rōmaji nhưng không thể thực hiện rộng rãi. Ngày nay kiểu viết trộn lẫn Hán tự – Hiragana – Katakana đang được thừa nhận rộng rãi như kiểu chữ viết chuẩn. – Hệ thống chữ viết của tiếng Nhật đã phát triển để cho cách viết thống nhất nhưng không phải lúc nào cũng thích hợp để diễn tả âm vị của phương ngữ. Ví dụ, ở khu vực Tūhoku (Đông Bắc) thì việc phát âm theo chữ Hệ thống chữ viết của tiếng Ryūkyū đang được dùng cũng tương ứng với cách dùng của tiếng Nhật. Ví dụ, bài thơ trong một địa danh của thành phố Nagoya được đọc với chữ kana là Phương ngữ và chữ viết kaki ( 柿 , “quả hồng vàng”) đọc là [kag ɨ 鍵 , “chìa khóa”) đọc là [kãŋ ɨ ], nhưng viết hai chữ này bằng kana thông thường sẽ là thì sẽ không phân biệt được (theo từ điển trọng âm nếu viết theo cách tương tự với chính tả sử dụng, sẽ trở thành 「カギ」 và 「カンキ゜」 ). Dù vậy, phương ngữ ít sử dụng ngôn ngữ viết, do đó trên thực tế ít gặp phải sự bất tiện. てぃんさぐぬ花 ) theo cách viết truyền thống sẽ được viết như sau てんさごの花や 爪先に染めて 親の寄せごとや 肝に染めれ ʔ u) của tiếng Ryūkyū không có cách viết tương ứng. Nếu viết theo ngữ âm, có chỗ viết giống như [ti ɴʃ Nói về phương ngữ Kesen tỉnh Iwate (tiếng Kesen), theo Harutsugu Yamaura, đã có những thử nghiệm về phép chính tả đúng dựa trên hình thức ngữ pháp. Nhưng đó chỉ là những thử nghiệm mang tính học thuật chứ không được sử dụng thực tế. tensago no hana của Ruka (còn được viết là agunu hanaja ʦ imi ʣ a ʧ i ɲ i sumiti, ʔ ujanu ju Theo cách viết này thì, ví dụ, 2 loại nguyên âm (u và ʃ igutuja ʧ imu ɲ i sumiri]. 「杁」 「杁中」 , đó là “văn tự khu vực” của địa phương chỉ có ở Nagoya. Ngoài ra, 「垰」 Mặt chữ của cách viết Hán tự có những chữ riêng biệt chỉ tồn tại ở một số địa phương. Ví dụ, chữ Irinaka tao hay tawa, cũng là một chữ khác chỉ có ở vùng Chūgoku.
Quy Tắc Cơ Bản Viết Chữ Kanji Trong Tiếng Nhật
1. Nét trên tới nét dưới, nét trái tới nét phải
Theo quy tắc chung, khi chúng ta viết chữ hán, những nét nằm ngang sẽ được viết từ trái sang phải còn những nét dọc sẽ được viết từ trên xuống dưới.
Ví dụ:
Đối với chữ nhất [一] là một đường nằm ngang được viết từ trái qua phải.
Chữ nhị [二] có 2 nét ngang cũng được viết ngang từ trái sang phải nhưng nét trên viết trước, nét dưới viết sau. Trong trường hợp này, cả 2 nét được viết từ trái qua phải nhưng nét nằm trên được viết trước.
Chữ tam [三] có 3 nét, mỗi nét được viết từ trái qua phải, bắt đầu từ nét trên xuống nét dưới
Quy tắc đầu tiên nét trên tới nét dưới, nét trái tới nét phảiLưu ý: Quy tắc này cũng áp dụng cho trật tự các thành phần trong chữ kanji phức tạp hơn
Ví dụ:
Chữ [校] có thể được chia thành 2 phần : Phần bên trái [木] và phần bên phải [交]. Theo quy tắc chúng ta sẽ viết phần bên trái [木] trước và phần bên phải [交] sau. Tuy nhiên cũng có vài trường hợp ngoại lệ khi phần bền phải của một chữ có nét đóng nằm dưới
2. Các nét ngang viết trước, các nét dọc viết sau
Với các hán tự có nét ngang và nét dọc giao nhau thì chúng ta sẽ viết nét ngang đầu tiên rồi mới tới nét dọc
Ví dụ :
Chữ thập (十) có 2 nét : ngang và dọc. Nét ngang [一] sẽ được viết đầu tiên, tiếp tục là nét sổ dọc để ra được chữ [十]
3. Các nét sổ thẳng và nét xuyên ngang được viết sau cùng
Các chữ kanji có một nét kéo từ trên xuống dưới đi qua các nét khác được gọi là nét sổ thẳng. Trong kanji, thì nét sổ thẳng sẽ được viết sau cùng.
Ví dụ :
Chữ sự [聿] có một nét sổ thẳng kéo dài từ trên xuống xuyên qua các nét khác được viết cuối cùng
Những chữ hán có nét xuyên qua các nét khác như chữ [毋] và chữ [舟] thì được gọi là nét xuyên ngang và nét xuyên ngang sẽ được viết sau cùng
4. Nét xiên trái (nét phẩy) viết trước các nét xiên phải (nét mác)
Tương tự quy tắc một chúng ta đã được biết thì phải viết từ trái rồi mới đến phải, thì đối với các nét xiên cũng vậy, phải viết xuyên trái trước rồi mới tới xuyên phải như trong chữ [文]
Lưu ý : quy tắc trên chỉ áp dụng cho các nét xiên đối xứng, còn đối với các nét xiên không đối xứng như trong chữ [戈], thì nét xiên phải có thể được viết trước nét xiên trái tùy theo theo quy tắc khác
Nét xiên trái (nét phẩy) viết trước các nét xiên phải (nét mác)5. Viết phần giữa trước đối với các chữ kanji đối xứng
Đối với các chữ hán đối xứng theo chiều dọc thì chúng ta ưu tiên viết nét giữa trước rồi sau đó đến các nét đối xứng cũng theo quy tắc bên trái viết trước, bên phải viết sau như trong chữ [兜], chữ [承] và chữ [水]
6. Phần bao quanh bên ngoài viết trước, phần bên trong viết sau
Với các chữ Hán có khung bao quanh khép kín hoặc không khép kín thì chúng ta sẽ theo quy tắc ngoài vào trong hay nói cách khác là viết nét ngoài trước rồi mới viết phần bên trong ví dụ trong chữ [日], chữ [口], chữ [同] và chữ [月]
7. Đối với phần bao quanh, viết nét sổ dọc bên trái trước
Trong phần bao quanh, những nét sổ dọc bên trái được viết trước rồi mới đến các nét bao quanh bên ngoài.
8. Đối với phần bao quanh, nét dưới đáy được viết sau cùng
Đối với những thành phần bao quanh nằm dưới đáy của chữ kanji thường được viết sau cùng ví dụ như trong các chữ sau : [道], [建] và [凶]
9. Các nét chấm nhỏ sẽ được viết sau cùng
Những nét chấm nhỏ thường được viết sau cùng ví dụ như trong các hán tự sau đây: [玉], [求] và [朮]
Sự Cần Thiết Của Hồi Ký
Sự cần thiết của hồi ký
Trần Hữu Dũng
Đến một tuổi nào đó, khi hồi ký trở thành một nhu cầu trong việc đọc thì viết hồi ký cũng là một sự cần thiết cho mỗi chúng ta.
(TBKTSG Xuân) – Càng lớn tuổi, tôi càng thích đọc hồi ký: hồi ký của những nhân vật lịch sử, hồi ký của các tướng lĩnh, của các chính trị gia, của các nhà văn hóa…
Tôi thích nhất hồi ký của những người cùng trang lứa với tôi, hoặc lớn hơn tôi một, hai thế hệ… Tôi dò xem những lúc họ làm một việc nào đó mà tôi đã biết qua báo chí, sử sách, viết một tác phẩm nào đó mà tôi đã đọc, thì họ thật sự làm gì, nghĩ gì. Điều này dễ hiểu. Càng sống lâu, chúng ta càng biết nhiều người, nhiều sự việc. Đọc hồi ký của những người này, về những sự việc mình đã nghe qua, không phải chỉ bồi bổ kiến thức (và thư giãn!), nhưng còn là một cách lấp những khoảng trống, những kẽ hở của chính cuộc đời mình. Những người này cần viết hồi ký, cho họ và những người hâm mộ họ.
Nhưng tôi không chỉ trông đợi hồi ký của những người mà, chỉ mới nghe tên, tôi đã muốn biết thêm về họ. Nhiều lần, trong những chuyến đi, tôi có dịp gặp những người tương đối trẻ, không nổi tiếng, mà trước đó tôi chưa quen. Tôi hay gợi chuyện họ, và không ít khi, các bạn ấy kể lại những cuộc đời “ly kỳ” đến nỗi tôi phải thốt lên lúc chia tay: Anh/chị nên viết hồi ký!
Quả vậy, đến một tuổi nào đó, khi hồi ký trở thành một nhu cầu trong việc đọc thì viết hồi ký cũng là một sự cần thiết cho mỗi chúng ta.
Tại sao nên viết hồi ký?
Đơn giản, mỗi chúng ta đều đã chứng kiến, tham gia nhiều vụ việc trong một hay nhiều cộng đồng (nhỏ hẹp như gia đình, rộng lớn như quốc gia) và tất nhiên đã tích lũy không ít kinh nghiệm sống. Khách quan mà nói, dù những sự kiện lịch sử mà một cá nhân trực tiếp chứng kiến, tham gia, có thể không nhiều và quan trọng, song mỗi cá nhân có một cái nhìn riêng, mỗi cá nhân có một số thông tin, dù nhỏ, mà không ai khác biết về sự kiện đó. Do tính cá biệt ấy, mỗi cặp “sự kiện – cá nhân” đều là độc nhất, không cặp nào giống cặp nào. Sự hiếm hoi (do tính độc nhất) ấy nên được chia sẻ, lưu truyền. Thậm chí, nếu có trường hợp hãn hữu nào mà một cá nhân không thấy, không nghe, không tham gia vào bất kỳ những sự kiện chung quanh anh/chị ta thì hồi ký của người ấy cũng quý hiếm, vì làm sao mà người ấy không thấy, không nghe, không tham gia? Trong khi xã hội trải qua vô vàn biến động thì người ấy đã sống trong “ốc đảo” nào, và vì sao mà ốc đảo ấy có thể tồn tại? Hồi ký của một người như thế đúng là cần thiết.
Nếu bạn là một nhân vật nổi tiếng (nghĩa là đã có ảnh hưởng trong một lĩnh vực nào đó) thì chắc chắn sẽ có nhiều người muốn biết thêm về bạn, nhất là những thông tin do chính bạn tiết lộ. Song, hồi ký không chỉ nhằm thỏa mãn sự tò mò của người ngưỡng mộ, hoặc để truyền đạt những kinh nghiệm sống của bản thân; viết hồi ký còn là cơ hội để hồi tưởng, gán ghép những mảnh vụn của ký ức, kiếm tìm sự xuyên suốt của chuỗi sự kiện cấu thành một đời người.
Đối với những chính trị gia, các tướng lĩnh thì, tôi nghĩ, việc viết hồi ký còn là một bổn phận. Các chính sách, quyết định của những người này có thể đã có ảnh hưởng đến vận mệnh của cả nước (thậm chí thế giới).
Người dân cần được giải thích tại sao họ đưa ra những chính sách ấy, những quyết định như thế. Những nhân vật quan trọng này cần viết hồi ký.
Đặc biệt hữu ích là hồi ký của các nhà văn hóa – những người hoạt động trong lĩnh vực sáng tác (viết văn, làm thơ, biên khảo, nghiên cứu, trình diễn…) – có thể đã có một sự nghiệp đáng kể. Hồi ký của họ sẽ bồi đắp thêm vào sự nghiệp ấy, bổ túc những tác phẩm trước đây của họ với những thông tin từ chính tác giả, có khả năng cho thấy một sự mạch lạc (mà lắm khi chính tác giả cũng chưa nhận ra) trong toàn bộ công trình của họ.
Nếu bạn thật nổi tiếng thì có lẽ có người sẽ viết tiểu sử của bạn. Song, đừng lầm lẫn hồi ký và tiểu sử. Hồi ký có thể chỉ về một lĩnh vực hoạt động nào đó, hoặc một giai đoạn nhất định trong đời tác giả. Tiểu sử thì đầy đủ hơn, từ ngày sinh cho đến lúc cuối đời. Hồi ký mới chính là tiếng nói của “đương sự”, nó là nguyên liệu cho tiểu sử. Người viết tiểu sử một nhân vật mà có được hồi ký của chính nhân vật ấy là một người viết may mắn.
Không chỉ người nổi tiếng trong xã hội mới cần viết hồi ký, bởi vì mỗi chúng ta đều “nổi tiếng”, ít ra cũng trong phạm vi gia đình, họ hàng, và nhất là có một sự quan trọng đặc biệt đối với các con, các cháu (kể cả những thế hệ chưa ra đời). Hồi ký của những người “bình thường” như thế lắm khi lại còn quý hơn hồi ký của các danh nhân, bởi vì chúng sẽ được trân trọng bởi con cháu, không chỉ vì sự tôn kính, mà còn vì chúng soi sáng thêm cội nguồn cho những thế hệ sau này. Một điều nữa: dù “bình thường” đến đâu, mỗi chúng ta đều là thành viên của một (hay nhiều) tập thể đã có một vai trò lịch sử (một cựu quân nhân đã từng vượt Trường Sơn, một cán bộ y tế chăm lo cho những người nghiện… chẳng hạn), viết hồi ký cho mình cũng là viết hồi ký cho đồng đội của mình, cho những người cùng hoàn cảnh với mình. Làm sao phủ nhận giá trị của hồi ký tuy là của một “cá nhân không nổi tiếng” như thế?
Nhiều người sẽ thoái thác việc viết hồi ký vì khiêm tốn nghĩ rằng “chết là hết”, rằng không có dấu vết gì (mà họ cho là nhỏ bé) đáng ghi lại của một kiếp sống phù du. Đối với họ, viết hồi ký là một sự tự phụ đáng xấu hổ, xúc phạm bản tính khiêm nhường của họ. Tư duy ấy đáng kính phục. Song, như trình bày ở trên, ngay đến những người không nổi tiếng, hồi ký cũng là cần thiết vì ít nhất là nó giúp ích cho thế hệ mai sau (dù chỉ trong gia tộc) hiểu biết hơn về cội nguồn tổ tiên. Hồi ký, như vậy, là một gia tài nhiều giá trị. Nó không là một sự tự phụ nên tránh, mà là một sự hy sinh đáng được tri ân.
Nên viết ra sao?
Nhiều người sẽ ngại viết hồi ký vì một lý do khác: Theo họ, hồi ký là một thể loại văn chương, mà họ không phải là “nhà văn”. Lý do đó không hoàn toàn thuyết phục. Giá trị của hồi ký, đầu tiên và cuối cùng, là ở nội dung và sự trung thực. “Tính văn chương”, nếu có, dĩ nhiên là đáng khuyến khích, nhưng là phụ. Khẳng định như thế không có nghĩa là hồi ký không cần một “trình độ văn chương” tối thiểu, và càng cao thì càng đáng tán thưởng, nhưng sự “trau chuốt văn chương” có thể nhờ vào các biên tập viên ở khâu đoạn biên tập trước khi xuất bản (nếu xuất bản). Ở phương Tây, hầu như hồi ký nào của các chính trị gia, tướng lĩnh, doanh nhân, diễn viên… cũng đều do những “tay viết ma” ( ghostwriter) chuyên nghiệp chấp bút theo lời kể của “nhân vật”.
Đó là việc công khai, bình thường. Tất nhiên nếu chính tác giả hồi ký là người sống với nghề cầm bút thì “tính văn chương” của hồi ký sẽ được thẩm định như những tác phẩm khác của nhà văn ấy. Nhưng không phải mọi hồi ký đều như thế.
Hồi ký không cần dài. Hai ba chục trang cũng là được. Hồi ký không cần thật chi tiết, đầy đủ từng năm tháng. Hiển nhiên, hồi ký không bắt buộc ghi lại mọi việc trong đời tác giả, mà có thể chỉ một sự kiện nào đó. (Nhà văn Anh Julian Barnes, chẳng hạn, vừa ra một hồi ký được giới phê bình nhiệt liệt ca tụng, trong đó ông chỉ nói về những ngày đau buồn mà ông đã trải qua sau khi vợ ông qua đời.) Hồi ký của một chính khách có thể chỉ bao gồm một nhiệm kỳ của chính khách ấy, của một tướng lĩnh có thể chỉ về một trận chiến mà ông tham gia.
Hồi ký vừa là tư riêng vừa là công khai. Nó tư riêng hơn một tác phẩm biên khảo, hoặc một quyển tiểu thuyết, nhưng công khai hơn nhật ký. Mục đích của tất cả hồi ký, không như hầu hết nhật ký, là để người khác đọc, nhưng “người khác” ấy có thể giới hạn trong phạm vi gia đình, bạn bè, hoặc thế hệ tương lai, không nhất thiết chỉ hôm nay. Cần nhấn mạnh: không phải mọi hồi ký đều được viết để xuất bản, phổ biến rộng rãi. Hồi ký có thể chỉ để chuyền tay giữa những người quen biết.
Trách nhiệm người viết
Đối với hồi ký, không gì quan trọng hơn sự chân thực và chính xác (ít nhất là theo trí nhớ có thể không còn tốt của tác giả). Nếu có chi tiết nào không nhớ rõ thì người viết phải cáo lỗi về nhược điểm ấy của mình, độc giả sẽ thông cảm. Chân thực không có nghĩa là người viết hồi ký phải phơi trần mọi sự việc cho cả thế giới biết.
Tất nhiên, không nên tiết lộ những bí mật quốc gia, hoặc những thông tin cá nhân có thể làm tổn thương những người đang sống mà không ích lợi gì cho ai khác ngoài những kẻ tò mò.
Vài lời cuối
Tôi rất may mắn đã có một người cha để lại hồi ký của ông. Vì hoàn cảnh lịch sử, tôi đã sống xa cha từ thuở ấu thơ và chỉ gặp lại ông khi tôi đã quá trung niên, nhưng chính hồi ký của ông, tuy không nhiều chi tiết như tôi mong ước, đã là một sợi dây kết chặt cha tôi và tôi – rồi sẽ tiếp nối đến các con, đến các cháu tôi – một sợi dây không bao giờ đứt, và mãi mãi thiết thân.
Đối với người Việt Nam, viết hồi ký trong giai đoạn này còn có một sự quan trọng đặc biệt, bởi vì những hồi ký ấy sẽ đóng góp vào sử ký chung của dân tộc. Hãy xem việc viết hồi ký như một sự sẻ chia, một món quà cho nhiều thế hệ mai sau. Nó có ích cho người viết cũng như cho người đọc. Viết hồi ký, khi tác giả chân thực, là một hành động “rộng lượng”, bởi lẽ nó đòi hỏi nhiều nỗ lực hồi tưởng, đồng thời đè nén những khoa trương, dối láo, để phơi trần con người thật của tác giả, để người đọc học hỏi những kinh nghiệm, biết những điều cần nên biết, xấu cũng như tốt, đáng hãnh diện cũng như đáng xấu hổ, và tất nhiên rất nhiều hối tiếc, từ cuộc đời của mình.
Bạn đang xem bài viết Sự Cần Thiết Và Cách Dùng Kanji Trong Tiếng Nhật trên website Toiyeucogaihalan.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!