Cập nhật thông tin chi tiết về Rút Đơn Yêu Cầu Khởi Kiện Trong Vụ Án Dân Sự: Hậu Quả Pháp Lý Và Những Vấn Đề Cần Trao Đổi mới nhất trên website Toiyeucogaihalan.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Việc rút yêu cẩu khởi kiện được qui định trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 (BLTTDS), nhưng ở mỗi giai đoạn khác nhau có qui định cách thức rút đơn khác nhau và hậu quả pháp lý cũng khác nhau, đó là: giai đoạn trước khi thụ lý vụ án, sau khi thụ lý vụ án, trong khi xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Cụ thể:– Giai đoạn trước khi thụ lý vụ án, được qui định tại điểm g, khoản 1 Điều 192 BLTTDS: “Người khởi kiện rút đơn khởi kiện.”, thì Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện. Như vậy, trước khi thụ lý vụ kiện mà người khởi kiện rút đơn thì được trả lại đơn và trong trường hợp này do Thẩm phán được phân công thực hiện.– Giai đoạn sau khi Tòa án đã thụ lý vụ án, thì việc rút đơn khởi kiện của đương sự sẽ được Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án. Điểm c, khoản 1 Điều 217 BLTTDS: “Người khởi kiện rút toàn bộ đơn khởi kiện”.– Giai đoạn đang xét xử sơ thẩm thì BLTTDS qui định cụ thể hơn: “Trường hợp có đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút ( khoản 2 Điều 244 BLTTDS).– Giai đoạn trước khi mở phiên tòa phúc thẩm hoặc tại phiên tòa phúc thẩm thì khi nguyên đơn rút đơn khởi kiện, Hội đồng xét xử phải hỏi bị đơn và nếu “bị đơn đồng ý thì Hội đồng xét xử ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án” (điểm b, khoản 1 Điều 299 BLTTDS). Trong trường hợp này, tại khoản 2 Điều 299 BLTTDS có qui định là “nguyên đơn có quyền khởi kiện lại vụ án” (theo thủ tục chung do BLTTDS quy định).Như vậy, qua các trường hợp nêu trên, có thể thấy chỉ một hành vi “rút đơn khởi kiện”, nhưng ở mỗi giai đoạn khác nhau của vụ án thì BLTTDS cũng có qui định khác nhau cho từng trường hợp cụ thể.Tuy nhiên, vấn đề chúng ta cần quan tâm là không phải lúc nào rút đơn khởi kiện cũng đều được kiện trở lại, nếu muốn. Trong thực tế đã có nhiều trường hợp do không biết pháp luật nên đã rút đơn khởi kiện và sau đó mất luôn quyền khởi kiện. Bài này xin đề cập vấn đề rút đơn khởi kiện, hậu quả của nó và những vướng mắc trong thực tiễn khi thực hiện quyền rút đơn khởi kiện.Về hậu quả pháp lý của rút đơn khởi kiện: Như đã đề cập ở trên, tùy theo từng giai đoạn mà Tòa án có thể ra những quyết định phù hợp khi rút đơn khởi kiện, cụ thể: Khi chưa thụ lý thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện; sau khi thụ lý rồi thì Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án; khi vụ án đang được xét xử sơ thẩm, nếu rút một phần hay toàn bộ yêu cầu khởi kiện thì Tòa án đình chỉ một phần hay toàn bộ yêu cầu của đương sự; giai đoạn xét xử phúc thẩm thì Tòa án hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.Về nội dung khởi kiện lại: Vấn đề này được quy định tại Khoản 3, Điều 192 – BLTTDS như sau:“3. Đương sự có quyền nộp đơn khởi kiện lại trong các trường hợp sau đây:a) …b) Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu mà theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại;c) … “Như vậy, không phải mọi trường hợp rút đơn, Tòa án đình chỉ vụ án cũng được khởi kiện trở lại mà chỉ có một số nội dung được qui định tại điểm b khoản 3 Điều 192 BLTTDS thì đương sự mới có quyền khởi kiện trở lại.Để hướng dẫn thực hiện quy định trên, tại Khoản 1, Điều 7 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TANDTC, có quy định:”Người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.”Như vậy, việc đương sự có quyền nộp đơn khởi kiện trở lại ngoài những nội dung qui định tại khoản 3 Điều 192, còn có nội dung qui định tại điểm c khoản 1 Điều 217, đó là “người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện”. Do đó, nếu căn cứ vào quy định này thì trường hợp nguyên đơn rút một phần yêu cầu và phần rút này bị đình chỉ thì không được kiện trở lại. Đây chính là điểm “vướng” trong BLTTDS dẫn đến sự thiếu thống nhất và khó áp dụng trong thực tế. Xin nêu ví dụ: Trong việc vi phạm hợp đồng cho thuê nhà, ngoài việc nguyên đơn kiện đòi tiền thuê nhà, họ còn đòi chi phí mà hai bên đã thỏa thuận để nguyên đơn bỏ ra sửa chữa nhà, nhưng do chưa hết thời gian trong hợp đồng mà bị đơn tự ý chấm dứt hợp đồng. Khi xét xử sơ thẩm, nguyên đơn xin rút phần yêu cầu bị đơn trả lại một phần chi phí sửa chữa tài sản (nhà). Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 224 BLTTDS để đình chỉ phần rút yêu cầu. Tuy nhiên, nguyên đơn xin rút là do chưa thẩm định được chi phí sửa chữa nên rút để củng cố chứng cứ sau đó kiện trở lại, chứ không phải rút vĩnh viễn. Trong trường hợp cụ thể này sau đó Tòa án không thụ lý lại với lý do pháp luật qui định “người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện” thì mới được kiện trở lại. Đây là điều không hợp lý, gây thiệt hại quyền và lợi ích chính đáng của đương sự.Những vấn đề cần bàn:Vấn đề đương sự nộp đơn khởi kiện trở lại được qui định khá cụ thể tại khoản 3 Điều 192 BLTTDS. Cụ thể, qui định 4 nhóm hành vi như: người khởi kiện đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự; xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đỏi mức cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại, xin thay đổi người quản lý tài sản, quản lý di sản, thay đổi người giám hộ, đòi lại tài sản, đòi tài sản cho thuê…; đã có đủ điều kiện khởi kiện; các trường hợp khác. Như vậy có nhiều trường hợp dù đã rút yêu cầu, Tòa án đã đình chỉ, nhưng sau đó vẫn có quyền kiện lại. Tuy nhiên, vấn đề phức tạp, vướng mắc xảy ra là ngoài nội dung được kiện lại ở Khoản 3 Điều 192 BLTTDS, Nghị quyết 04/2017 của HĐTPTANDTC còn có qui định thêm trường hợp được khởi kiện lại là “người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện”. Quy định này được hiểu là người khởi khiện chỉ kiện lại nếu như trước đó đã rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tức là nếu chỉ rút một phần yêu cầu thì không được kiện lại (đối với phần đã rút)! Theo tôi, đây là quy định bất hợp lý. Bởi thực tế có nhiều vụ án mà người khởi kiện chỉ rút một phần yêu cầu (do chưa chuẩn bị đầy đủ chứng cứ nên cần có thời gian để bổ sung hoặc cần giám định lại sức khỏe .v.v…) để sau đó khởi kiện lại chứ không phải rút để từ bỏ yêu cầu. Mặt khác, nếu người khởi kiện vì không muốn từ bỏ bất cứ yêu cầu nào của mình mà buộc phải rút toàn bộ yêu cầu, trong đó có yêu cầu chưa được chuẩn bị tốt về chứng cứ, để sau đó được quyền khởi kiện lại vụ án, thì đó cũng là một trở ngại lớn cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án.Thiết nghĩ, Hội đồng Thẩm phán TANDTC nên xem xét nội dung trên để điều chỉnh lại cho hợp lý, nhằm tránh trường hợp người khởi kiện buộc phải tạm thời rút yêu cầu vì lý do trở ngại khách quan mà không được kiện lại để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình./.
Lê Hằng Vân
Tư Vấn Cách Viết Đơn Xin Rút Yêu Cầu Khởi Kiện Vụ Án Dân Sự ?
Câu hỏi được biên tập từchuyên mục hỏi đáp pháp luậtcủa Kiến thức Luật pháp.
Nội dung phân tích:
Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2011.
Điều 167 và điều 168 Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định:
“Điều 167. Thủ tục nhận đơn khởi kiện
Toà án phải nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp tại Toà án hoặc gửi qua bưu điện và phải ghi vào sổ nhận đơn. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Toà án phải xem xét và có một trong các quyết định sau đây:
1. Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình;
2. Chuyển đơn khởi kiện cho Toà án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án khác;
3. Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Điều 168. Trả lại đơn khởi kiện
1. Toà án trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp sau đây:
a) Thời hiệu khởi kiện đã hết;
b) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;
c) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Toà án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại hoặc vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Toà án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện;
d) Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 2 Điều 171 của Bộ luật này mà người khởi kiện không đến Toà án làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ trường hợp có lý do chính đáng;
đ) Chưa có đủ điều kiện khởi kiện;
e) Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
2. Khi trả lại đơn khởi kiện, Toà án phải có văn bản kèm theo ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện.”
Theo như bạn trình bày thì bạn nộp đơn đến tòa án không thuộc thẩm quyền, trong trường hợp này Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện cho bạn. Bạn không cần phải làm đơn xin rút lại đơn khởi kiện.
Rút Yêu Cầu Khởi Tố Vụ Án Hình Sự Và Quyền Được Yêu Cầu Lại
Có thể nói khởi tố vụ án hình sự (VAHS) theo yêu cầu của bị hại là đảm bảo quyền tự quyết và tự định đoạt của bị hại khi chính họ là người trực tiếp bị xâm hại đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc bị xâm phạm đến quyền sở hữu công nghiệp mà tính chất, mức độ cũng như thiệt hại gây ra phần lớn thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và chỉ có hai trường hợp là nghiêm trọng. Với tư cách là bên bị thiệt hại trực tiếp do tội phạm gây ra, quyền buộc tội của bị hại được “suy ra từ nội dung của các quyền tố tụng được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự”[1] phù hợp với nội dung của chức năng buộc tội. Điều này được thể hiện rõ nét hơn khi vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì chính bị hại vừa tham gia tố tụng với tư cách là bị hại trong vụ án, vừa nhân danh cá nhân để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, trong đó có vai trò buộc tội thông qua việc trình bày lời buộc tội tại phiên tòa [2]. Chính vì vậy, pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) đã quy định những trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) chỉ được khởi tố VAHS khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại trong trường hợp bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết và họ cũng có quyền rút yêu cầu khởi tố [3], trừ trường hợp có căn cứ xác định việc rút yêu cầu là trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức.
1. Quy định về rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và quyền được yêu cầu khởi tố vụ án hình sự lại
CQTHTT chỉ được quyền khởi tố VAHS khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại và họ chỉ được quyền rút yêu cầu khởi tố thuộc một trong các tội danh được liệt kê tại khoản 1 Điều 155 của BLTTHS năm 2015. Theo đó, các trường hợp bị hại hoặc người đại diện của họ được rút yêu cầu khởi tố là các tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng xâm phạm đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và trật tự quản lý kinh tế. Cụ thể là các tội thuộc khoản 1 các điều: Điều 134 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác), Điều 135 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh), Điều 136 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội), Điều 138 (Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác), Điều 139 (Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính), Điều 141 (Tội hiếp dâm), Điều 143 (Tội cưỡng dâm), Điều 155 (Tội làm nhục người khác), Điều 156 (Tội vu khống) và Điều 226 (Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp).
Đây là những tội danh mà người phạm tội thực hiện hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích của bị hại cũng như ảnh hưởng đến nhà nước và xã hội ở mức độ hạn chế. Nếu như để họ tiếp tục theo đuổi vụ án thì có thể gây mất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc của họ cho việc theo đuổi vụ án, thậm chí còn có thể làm giảm uy tín, ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm và còn gây ra tiếp những tổn hại về tinh thần cho họ. Do vậy, TTHS đã trao cho bị hại quyền tự quyết và định đoạt, tức là vụ án chỉ được khởi tố theo yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại trong một số trường hợp đặc biệt và họ cũng có thể rút lại yêu cầu của mình để chấm dứt tiến trình giải quyết vụ án để có thể bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của bị hại, nhưng không ảnh hưởng đáng kể đến lợi ích của xã hội và nhiệm vụ của nhà nước trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Bảo vệ bị hại không chỉ đơn thuần là trừng trị người phạm tội, mà trong một số trường hợp còn phải xem xét đến nguyện vọng của bị hại mong muốn xử lý người phạm tội như thế nào. Nếu bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì họ không có quyền yêu cầu khởi tố lại, chỉ trong trường hợp việc rút yêu cầu đó là do họ bị ép buộc, cưỡng bức [4] thì họ mới có quyền yêu cầu lại. Và khi người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ khi có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì mặc dù người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, nhưng Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn được quyền tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án [5].
Điều này có nghĩa rằng, chế định khởi tố VAHS theo yêu cầu của bị hại thể hiện sự tôn trọng, thực hiện quyền quyết định và định đoạt của bị hại trong TTHS đối với các tội danh thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng xâm phạm đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và trật tự quản lý kinh tế được liệt kê tại khoản 1 Điều 155 BLTTHS năm 2015. Và một khi sự quyết định, định đoạt đó bị ép buộc hoặc cưỡng ép – không phải xuất phát từ ý chí đích thực, sự tự nguyện của bị hại hoặc người đại diện của bị hại, thì TTHS vô hiệu hóa sự định đoạt đó và trao quyền quyết định cho các CQTHTT – tiếp tục thực hiện việc điều tra, truy tố và xét xử theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, quy định tại Điều 4 của BLTTHS năm 2015 về giải thích từ ngữ, cũng như quy định tại Điều 155 không định nghĩa như thế nào là rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức nên dẫn đến có nhiều quan điểm khác nhau. Theo từ điển tiếng Việt “ép buộc” là “dùng quyền lực bắt phải làm điều trái với ý muốn”[6], còn “cưỡng bức” là “bắt phải làm, dù không muốn cũng không được”.[7]
Đe dọa có thể được hình dung như một hành vi có tác dụng dẫn dắt ý chí của người bị đe dọa đi theo ý chí của người đe dọa mà, người bị đe dọa, dù không muốn, không thể (hoặc không dám) cưỡng lại. Nói rõ hơn, đe dọa, ở góc độ của người bị đe dọa, hình thành từ hai yếu tố: một yếu tố khách quan – mối nguy hiểm bủa vây – và yếu tố chủ quan – nỗi sợ. Chính dưới sự đe dọa đó mà ý chí được bày tỏ của người bị đe dọa không thể phản ánh trung thực ý chí nội tâm của người này.[8] Sự đe dọa phải có tác dụng quyết định đối với sự ưng thuận (miễn cưỡng) của người bị đe dọa, nghĩa là người bị đe dọa chấp nhận rút yêu cầu khởi tố chỉ vì bị đe dọa.
Theo Konrad Zweigert and Hein Koetz, ở Common Law, thuật ngữ “cưỡng ép” (duress) có nghĩa hẹp chỉ trường hợp một người phải đưa ra một lời hứa bởi bị bạo lực về thể chất hay bị giam hãm.[9] Theo đó, chỉ hành vi sử dụng bạo lực hoặc đe dọa sử dụng bạo lực hoặc giam hãm một bên hoặc cha mẹ, vợ chồng, con của bên đó nhằm mục đích buộc bên bị cưỡng ép phải chấp thuận việc rút đơn yêu cầu khởi tố. Khi xem xét cưỡng ép cần chú ý đến bốn yếu tố sau: (1) Bạo lực không nhất thiết là thực tế mà có thể là đe dọa; (2) Bạo lực hoặc đe dọa không nhất thiết phải thực hiện với người có quyền rút yêu cầu khởi tố mà có thể thực hiện đối với cha mẹ, vợ chồng, con của người này; (3) Bạo lực cũng có thể là việc giam hãm; (4) Bạo lực có thể thực hiện bởi người thứ ba hành động dưới sự chỉ dẫn hay cho lợi ích của người cưỡng ép rút yêu cầu khởi tố.
Như vậy, qua giải thích và phân tích trên, có thể hiểu: Bị hại hoặc người đại diện của bị hại rút yêu cầu khởi tố do bị ép buộc, cưỡng bức là do hành vi cố ý của người thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm hoặc người thứ ba làm cho bị hại hoặc người đại diện của bị hại buộc phải rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của họ hoặc của người thân thích của họ.
Vào khoảng tháng 4/2017, Phạm Văn H có vay số tiền 20.000.000 đồng của Bạch Nhựt T và Bạch Quốc T1 (em ruột của T) đến hạn trả tiền và T với anh T1 đã nhiều lần đến đòi nhưng ông H hứa hẹn nhiều lần. Đến ngày 25/10/2017, T và T1 tiếp tục đến nhà đòi tiền thì H hẹn 14 giờ ngày 26/10/2017 sẽ trả. Đến thời gian đã cam kết H vẫn không trả tiền nên T nhiều lần điện thoại đòi tiền nhưng H không nghe máy.
Đến khoảng 18 giờ ngày 26/10/2017, Võ Thanh Đ điện thoại rủ T đi uống cà phê. Trên đường đi, T kêu Đ chở ra cầu TD thuộc xã L, huyện L và T điện thoại cho Nguyễn Minh T2 rủ đi chơi. Khi T và Đ chạy đến đầu đường huyện lộ 30/4 thì gặp T2, T kêu Đ chở đến nhà Phạm Văn H.
Khi đến nhà, T kêu H ra để đòi tiền 02 – 03 lần nhưng H không ra. Sau đó, T nhặt thanh sắt rồi đập vào cửa rào của H 02 cái và tiếp tục kêu H ra. Thấy vậy, Đ cũng lấy thanh sắt của T đang cầm đập vào cửa rào của H 03 cái, thì Lê Thị Thu Q cùng Phạm Chí T3 và Phạm Hoài N (vợ và 02 con của H) đi ra, chị Q nói T đi tìm H mà đòi, nên T điện thoại kêu Bạch Quốc T1 đến nhà H lấy tiền.
Lúc này, có anh Trần Hữu B, anh Trần Minh T4 và anh Phan Duy L là Công an xã L đến, do trước khi ra gặp T gia đình chị Q có điện thoại báo Công an xã L. Khi đó, chị Q và T tự thỏa thuận là chị Q đồng ý trả tiền thay cho H vốn và lãi tổng cộng là 30.000.000 đồng nên Công an xã ra về. Cùng lúc đó, T1, Nguyễn Hoàng N1 chạy xe mô tô đến đến nhưng cả hai không vào nhà mà cùng với T2 đứng dưới mé sông trước cửa nhà của H. Trong lúc chị Q đang viết giấy biên nhận nợ thì T yêu cầu chị Q lấy sổ hộ khẩu và giấy chứng minh nhân dân ra cho T xem, nhưng chị Q không đồng ý.
Cùng lúc này, H cầm cây sắt từ trong nhà đi ra chửi thề và nói “gia đình tao hứa trả rồi làm gì bây kêu đem giấy tờ ra, không trả gì hết, đánh chết mẹ bây luôn” và tiến lại chỗ T đang ngồi. Thấy vậy, Đ và T chạy theo đến cửa rào thì vớ được cây sắt quay vào đánh trúng vào chân mày trái của H và ôm H lại, Đ dùng đoạn sắt đánh trúng đùi trái của T3 01 cái. Chị Q thấy H bị chảy máu nhiều ở mí mắt trái nên la lên thì Công an xã L đến lập biên bản sự việc, còn H được chị Q đưa đi Bệnh viện, từ ngày 26/10/2017 đến 30/10/2017 thì được xuất viện.
Kết luận giám định pháp y về thương tích ngày 23/11/2017 xác định: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của Phạm Chí T3 do vật tày gây nên, tại thời điểm giám định là 01% và của Phạm Văn H là 02%. Ngày 02/11/2017 và ngày 25/02/2018, Phạm Văn H và Phạm Chí T3 làm đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với T và Đ và yêu cầu bồi thường chi phí điều trị 5.000.000 đồng, tổn thất tinh thần 35.000.000 đồng, tổng cộng là 40.000.000 đồng.
Ngày 22/6/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) Công an huyện L, tỉnh Đ đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Bạch Nhựt T và Võ Thanh Đ về tội “Cố ý gây thương tích” theo Điều 134 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Ngày 11/7/2018, Bạch Quốc T1 đại diện cho T gặp Phạm Văn H và Phạm Chí T3 (đại diện cho T3 là H) để thỏa thuận: T1 đồng ý bồi thường 40.000.000 đồng theo yêu cầu của H và T3 bằng hình thức cấn trừ cho H số tiền vốn nợ vay 20.000.000 đồng mà H còn nợ T và T1 (gồm 5.000.000 đồng tiền thuốc điều trị và 15.000.000 đồng tiền tổn thất về tinh thần), còn lại 20.000.000 đồng sẽ bồi thường sau. Ngày 13/7/2018, Phạm Văn H và Phạm Chí T3 có đơn xin rút đơn yêu cầu xử lý hình sự (viết tay và có xác nhận của Công an xã L, huyện L) đối với Bạch Nhựt T và Võ Thanh Đ và xin giảm nhẹ hình phạt cho T.
Ngày 18/7/2018, Cơ quan CSĐT Công an huyện L ra Quyết định đình chỉ điều tra bị can đối với Võ Thanh Đ về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Trong quá trình chuẩn bị xét xử, Bạch Quốc T1 tiếp tục bồi thường thay cho T thêm 1.000.000 đồng, nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L để khắc phục hậu quả cho H và T3. Ngày 19/11/2018, VKSND huyện L đã ra cáo trạng truy tố bị cáo Bạch Nhựt T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm d khoản 2 Điều 134 của BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Ngày 30/11/2018, TAND huyện L ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo đề nghị của VKSND huyện L.
Ngày 28/12/2018, VKSND huyện L đã ra cáo trạng thay thế cáo trạng ngày 19/11/2018 tiếp tục truy tố bị cáo Bạch Nhựt T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, i khoản 1 Điều 104 của BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Ngày 19/12/2018, Cơ quan CSĐT và VKSND huyện L làm việc với Bạch Nhựt T, Phạm Văn H và Phạm Chí T3 và cho rằng: H và T3 có đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với T với lý do H yêu cầu nhận đủ số tiền bồi thường còn lại là 19.000.000 đồng mới hoàn toàn bãi nại không yêu cầu xử lý hình sự đối với T. Tức là, H và T3 rút yêu cầu khởi tố đối với T là có điều kiện – sau khi bồi thường hết số tiền 19.000.000 đồng còn lại.
Ngày 24/01/2019, TAND huyện L ra quyết định đình chỉ vụ án với lý do tại phiên tòa bị hại Phạm Văn H và Phạm Chí T3 (H đồng thời là người đại diện cho T3) xin rút lại toàn bộ yêu cầu khởi tố VAHS là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 155 BLTTHS năm 2015. Điều này cũng có nghĩa là, TAND huyện L cũng đồng tình với Cơ quan CSĐT và VKSND huyện L về việc H và T3 rút yêu cầu khởi tố đối với T là có điều kiện.
Qua phân tích quy định tại Điều 155 BLTTHS năm 2015 về khởi tố VAHS theo yêu cầu của bị hại, cho thấy TTHS không có đề cập đến trường hợp rút yêu cầu khởi tố VAHS có điều kiện và khi điều kiện đó xảy ra thì mới được coi là bị hại hoặc người đại diện của bị hại rút toàn bộ yêu cầu. Về nguyên tắc, trong pháp luật hình sự và TTHS khi không có quy định hoặc quy định chưa đầy đủ dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau, thì trong mọi trường hợp phải áp dụng nguyên tắc có lợi cho người phạm tội – không được làm xấu đi tình trạng của bị can, bị cáo.
Trở lại vụ án trên, đơn xin rút yêu cầu xử lý hình sự ngày 13/7/2018 của Phạm Văn H và Phạm Chí T3 đối với Bạch Nhựt T và Võ Thanh Đ viết tay và có xác nhận của Công an xã L, huyện L, thì không thể cho rằng việc rút yêu cầu khởi tố của H và T3 là do bị đe dọa hay cưỡng bức. Nếu có sự nghi ngờ hay chưa rõ thì Cơ quan CSĐT Công an huyện L phải xác minh, lấy lời khai làm rõ trong quá trình nhận đơn và VKSND huyện L cũng phải kiểm sát chặt chẽ việc này. Chỉ đến khi TAND huyện L trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì VKSND huyện L mới thay đổi cáo trạng với hai nội dung được điều chỉnh: Một là, thay đổi điều khoản truy tố từ điểm d khoản 2 Điều 134 của BLHS năm 2015 sang điểm a, i khoản 1 Điều 104 của BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009; Hai là, Cơ quan CSĐT và VKSND huyện L làm việc với Bạch Nhựt T, Phạm Văn H và Phạm Chí T3 vào ngày 19/12/2018 và cho rằng: H và T3 có đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với T với lý do H yêu cầu nhận đủ số tiền bồi thường còn lại là 19.000.000 đồng mới hoàn toàn bãi nại không yêu cầu xử lý hình sự đối với T. Có vẻ như các CQTHTT đối với vụ án trên cùng cho rằng trường hợp rút yêu cầu khởi tố của H và T3 là có điều kiện nhằm cứu vãn cho tình thế Cơ quan CSĐT và Viện kiểm sát không làm tròn trách nhiệm đó và hình như còn có sai sót trong việc áp dụng nguyên tắc có lợi cho người phạm tội trong giai đoạn giao thoa giữa luật mới với luật cũ – khi hành vi phạm tội được thực hiện ở thời điểm BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 đang có hiệu lực và BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã được Quốc hội thông qua nhưng chưa có hiệu lực. Việc này đã làm ảnh hưởng đến việc tạm giam T từ ngày 13/7/2018 đến 29/11/2018. Ngoài ra, H và T3 có đơn rút yêu cầu khởi tố ngày 13/7/2018 nhưng đến ngày 18/7/2018 Cơ quan CSĐT Công an huyện L mới ra quyết định đình chỉ bị can đối với Đ – điều này không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của bị can đang bị tạm giam – mà đó còn xâm phạm đến quyền cơ bản của con người đã được Hiến pháp ghi nhận.
Chúng tôi cho rằng, trường hợp này thuộc về kỹ năng xử lý tình huống của người tiến hành tố tụng, họ phải giải thích hậu quả pháp lý của việc bị hại rút yêu cầu khởi tố và làm rõ việc bị hại rút yêu cầu khởi tố có hoàn toàn tự nguyện không, nếu bị hại đã tự nguyện thì xem như họ đã rút yêu cầu khởi tố, tức là về mặt yêu cầu xử lý hình sự. Còn việc thỏa thuận và thống nhất về mức bồi thường giữa các bên là thuộc về trách nhiệm dân sự, nên người tiến hành tố tụng cần giải thích cho họ và đề nghị nên ấn định thời hạn để hoàn thành việc bồi thường nếu bị can không bồi thường đúng thời hạn đó thì bị hại có quyền khởi kiện bằng một vụ án dân sự. Bởi lẽ, thực chất bị hại yêu cầu bồi thường số tiền cao hơn thực tế nhiều lần và đã đưa bị can vào tình thế miễn cưỡng phải bồi thường để không phải bị xử lý hình sự. Nếu như bị can là người giàu có thì vấn đề không có gì phải bàn, nhưng bị can là người nghèo, gia đình khó khăn ở giai đoạn điều tra họ bồi thường một ít, đến giai đoạn xét xử sơ thẩm họ bồi thường thêm một ít và giai đoạn phúc thẩm họ cũng bồi thường thêm một ít, đến khi xét xử phúc thẩm xong họ bồi thường hết số tiền còn lại thì như thế nào, có hồi tố cho họ được không.
Biết rằng, mức bồi thường sẽ được Tòa án xem xét lại cho phù hợp với quy định của pháp luật và việc đã bồi thường được xem là tình tiết giảm nhẹ, nhưng trong trường hợp này nếu được coi là rút yêu cầu khởi tố có điều kiện thì chế định khởi tố VAHS theo yêu cầu của bị hại lại tỏ ra sự bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo, làm mất đi ý nghĩa thực sự của chế định khởi tố VAHS theo yêu cầu của bị hại [10] và nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật trong TTHS [11] bị phá vỡ. Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng không có việc bị hại rút yêu cầu khởi tố có điều kiện, tức là khi nào bị can, bị cáo bồi thường xong thì đơn rút yêu cầu đó mới có hiệu lực và khi bị hại hoặc người đại diện của bị hại rút yêu cầu khởi tố thì CQTHTT phải ban hành ngay quyết định đình chỉ giải quyết vụ án (nếu vụ án chỉ có duy nhất một bị can, bị cáo) hoặc đình chỉ đối với bị can, bị cáo mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại rút (nếu vụ án có nhiều bị can, bị cáo)./.
1.Lê Nguyên Thanh, Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2012, tr. 59. 2.Khoản 3 Điều 62, khoản 4 Điều 320 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. 3.Trên thực tế bị hại thường hay viết đơn với tên “đơn xin bãi nại” theo từ ngữ dân gian, chứ không phải là thuật ngữ pháp lý. Bãi nại theo nghĩa Hán Việt là bãi bỏ (chấm dứt, hủy bỏ) việc khiếu nại, kiện cáo, kiện tụng. Đối với vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì việc bãi nại với nội dung không yêu cầu xử lý trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội thì được xem là rút yêu cầu khởi tố; nếu bị hại chỉ bãi nại với nội dung không yêu cầu bồi thường, tức là đơn bãi nại không đề cập đến việc xử lý hay không xử lý trách nhiệm hình sự người phạm tội thì đây không phải là rút đơn yêu cầu khởi tố. 4.Khoản 3 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. 5.Khoản 2 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. 6.Viện ngôn ngữ học – Hoàng Phê chủ biên (2016), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 458. 7.Viện ngôn ngữ học – Hoàng Phê chủ biên (2016), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 294. 8.Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh – Nguyễn Ngọc Điện chủ biên (2019), Giáo trình Luật dân sự (Tái bản lần thứ 5, có chỉnh sửa bổ sung), Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 154 – 155 9. Konrad Zweigert and Hein Koetz (1998), An Introduction to Comparative Law, Clarendon Press, Oxford, p. 428. chúng tôi thêm: Nguyễn Đức Thái, Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2015, tr. 63 – 66. 11.Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Ủy Quyền Khởi Kiện Vụ Án Dân Sự
Điều 186 BLTTDS 2015 về quyền khởi kiện quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”
Khoản 2 Điều 189 BLTTDS 2015 về việc làm đơn khởi kiện của cá nhân tại các điểm a và b quy định:
“b) Cá nhân là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người đại diện hợp pháp của họ có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp đó phải ký tên hoặc điểm chỉ;“. a) Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, cá nhân đó phải ký tên hoặc điểm chỉ;
Các quy định nêu trên dẫn đến có những quan điểm khác nhau:
– Quan điểm thứ nhất cho rằng, Điều 186 BLTTDS 2015 quy định về quyền khởi kiện, theo đó cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án và người đại diện hợp pháp ở đây bao gồm người đại diện theo ủy quyền và người đại diện theo pháp luật. Do đó, người đại diện theo ủy quyền có thể trực tiếp ký đơn hoặc điểm chỉ vào đơn khởi kiện. Tức là, người có quyền và lợi ích bị xâm hại có thể ủy quyền cho người khác khởi kiện và tham gia tố tụng từ giai đoạn làm đơn khởi kiện để nộp đến Tòa án[1].
– Quan điểm thứ hai cho rằng, quy định tại Điều 189 BLTTDS 2015 đã xác định đối với cá nhân có quyền, lợi ích bị xâm hại là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự thì phải trực tiếp ký hoặc điểm chỉ vào đơn khởi kiện và cho rằng đây là quyền nhân thân của người khởi kiện, không thể chuyển giao cho người khác. Chỉ trường hợp người khởi kiện là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người đại diện hợp pháp của họ mới ký hoặc điểm chỉ đơn khởi kiện vụ án. Nói cách khác, người có quyền, lợi ích bị xâm hại phải trực tiếp ký, điểm chỉ vào đơn khởi kiện và việc ủy quyền tham gia tố tụng giải quyết vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích của họ chỉ được thực hiện sau khi khởi kiện và Tòa án đã thụ lý vụ án.
Quan điểm thứ hai này dẫn đến trong thực tiễn giải quyết các vụ án, khi người khởi kiện là người đại diện hợp pháp theo ủy quyền nộp đơn khởi kiện đến Tòa án thì một số Tòa án đã không nhận đơn khởi kiện để thụ lý và yêu cầu bắt buộc người có quyền, lợi ích bị xâm hại phải trực tiếp ký hoặc điểm chỉ vào đơn khởi kiện chứ không phải thông qua người đại diện theo ủy quyền[2].
Theo tác giả, với các quy định tại Điều 186 và Điều 189 của BLTTDS 2015 nêu trên là hoàn toàn logic và tương thích với các quy định của BLDS năm 2015. Ở đây, hoàn toàn không vướng mắc về quy định của pháp luật mà chỉ là do chưa có sự nhận thức đúng đắn về quy định tại các điều 186 và 189 BLTTDS mà thôi. Tác giả cũng đồng tình với quan điểm thứ nhất và cho rằng quan điểm thứ hai là không đúng và không phù hợp với quy định của pháp luật dân sự về người đại diện và không đúng với tinh thần Hiến pháp năm 2013. Quan điểm thứ hai đã hạn chế quyền tự do định đoạt của người có quyền, lợi ích bị xâm hại vì họ có thể ủy quyền cho người khác thực hiện việc khởi kiện. Bởi lẽ:
(1) Theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 thì quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng;
“Điều 134. Đại diện Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Cá nhân không được để người khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó. Trường hợp pháp luật quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện. Điều 135. Căn cứ xác lập quyền đại diện Quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện (sau đây gọi là đại diện theo ủy quyền); theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là đại diện theo pháp luật).”
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, khoản 2 Điều 2 BLDS năm 2015 quy định: “Quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
(2) Theo quy định tại Điều 134 và Điều 135 BLDS năm 2015 thì đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự; cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Cá nhân không được để người khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó. Cụ thể như sau:
“4. Đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật hôn nhân và gia đình thì họ là người đại diện.“ Người đại diện theo ủy quyền theo Chú thích: quy định http://tapchitoaan.vn/bai-viet/trao-doi-y-kien/ca-nhan-co-duoc-quyen-ky-vao-don-thay-cho-nguoi-khoi-kien/HyTKM1SfG.html của http://tapchitoaan.vn/bai-viet/trao-doi-y-kien/trao-doi-bai-viet-ca-nhan-co-duoc-quyen-ky-vao-don-thay-cho-nguoi-khoi-kien-hay-khong/S1kMWI2EG.html Bộ luật dân sự là người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự.
Đồng thời, BLDS 2015 cũng quy định quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện; cá nhân, pháp nhân có thể uỷ quyền cho cá nhân, pháp nhân khác cũng như hậu quả của hành vi đại diện, thời hạn đại diện và phạm vi đại diện tại các điều 139, 140 và 141[3]. Theo các quy định này thì người đại diện thực hiện hành vi đại diện trong thời hạn đại diện và phù hợp phạm vi đại diện sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với người được đại diện.
(3) Bên cạnh đó, khoản 4 Điều 85 của BLTTDS 2015 cũng có quy định:
Với quy định tại khoản 4 Điều 85 BLTTDS 2015 nêu trên thì người đại diện theo ủy quyền theo quy định của BLDS là người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự; luật chỉ quy định đối với việc ly hôn thì đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Tuy nhiên, trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật hôn nhân và gia đình[4] thì cha, mẹ, người thân thích đó là người đại diện.
Như vậy, ngoài quy định đối với việc ly hôn đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng thì không có quy định nào của luật hạn chế việc ủy quyền khởi kiện vụ án dân sự.
Do vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho người có quyền, lợi ích bị xâm hại trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tránh việc áp dụng không đúng quy định tại các điều 186, 189 của BLTTDS theo hướng bắt buộc người có quyền và lợi ích bị xâm hại phải ký hoặc điểm chỉ vào đơn khởi kiện như trên và để bảo đảm thống nhất áp dụng pháp luật rất cần có hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (HĐTP TANDTC).
Để bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật trong TAND, cần có sự thống nhất trong nhận thức về quy định của pháp luật. Vì vậy, cần hướng dẫn cụ thể việc ủy quyền khởi kiện của cá nhân. Theo tác giả, có thể hướng dẫn như sau: Cá nhân là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự có quyền và lợi ích bị xâm hại trực tiếp ký hoặc điểm chỉ đơn khởi kiện hoặc người đại diện theo ủy quyền của họ ký hoặc điểm chỉ đơn khởi kiện, trừ trường hợp luật không cho phép hoặc luật quy định phải trực tiếp tham gia tố tụng.
[1] Huỳnh Minh Khánh, Cá nhân có được quyền ký vào đơn thay cho người khởi kiện?, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử ngày 18/12/2017.
[2] Nguyễn Huy Hoàng , Trao đổi bài viết “Cá nhân có được quyền ký vào đơn thay cho người khởi kiện hay không?”, đăng trên tạp chí điện tử ngày 17/01/2018.
[3] Các điều 139, 140 và 141 BLDS năm 2015 quy định:
“Điều 139. Hậu quả pháp lý của hành vi đại diện
Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện với người thứ ba phù hợp với phạm vi đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện.
Người đại diện có quyền xác lập, thực hiện hành vi cần thiết để đạt được mục đích của việc đại diện.
Trường hợp người đại diện biết hoặc phải biết việc xác lập hành vi đại diện là do bị nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép mà vẫn xác lập, thực hiện hành vi thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ trường hợp người được đại diện biết hoặc phải biết về việc này mà không phản đối.
Điều 140. Thời hạn đại diện
Thời hạn đại diện được xác định theo văn bản ủy quyền, theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật.
Trường hợp không xác định được thời hạn đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì thời hạn đại diện được xác định như sau:
a) Nếu quyền đại diện được xác định theo giao dịch dân sự cụ thể thì thời hạn đại diện được tính đến thời điểm chấm dứt giao dịch dân sự đó;
b) Nếu quyền đại diện không được xác định với giao dịch dân sự cụ thể thì thời hạn đại diện là 01 năm, kể từ thời điểm phát sinh quyền đại diện.
Đại diện theo ủy quyền chấm dứt trong trường hợp sau đây:
a) Theo thỏa thuận;
b) Thời hạn ủy quyền đã hết;
c) Công việc được uỷ quyền đã hoàn thành;
d) Người được đại diện hoặc người đại diện đơn phương chấm dứt thực hiện việc ủy quyền;
đ) Người được đại diện, người đại diện là cá nhân chết; người được đại diện, người đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại;
e) Người đại diện không còn đủ điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 134 của Bộ luật này;
g) Căn cứ khác làm cho việc đại diện không thể thực hiện được.
Đại diện theo pháp luật chấm dứt trong trường hợp sau đây:
a) Người được đại diện là cá nhân đã thành niên hoặc năng lực hành vi dân sự đã được khôi phục;
b) Người được đại diện là cá nhân chết;
c) Người được đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại;
Điều 141. Phạm vi đại diện
Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo căn cứ sau đây:
SOURCE: TẠP CHÍ TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐIỆN TỬ Trích dẫn từ: http://tapchitoaan.vn/bai-viet/trao-doi-y-kien/uy-quyen-khoi-kien-vu-an-dan-su/B1I4UElBG.html
a) Quyết định của cơ quan có thẩm quyền;
b) Điều lệ của pháp nhân;
c) Nội dung ủy quyền;
d) Quy định khác của pháp luật.
Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Người đại diện phải thông báo cho bên giao dịch biết về phạm vi đại diện của mình.”
[4] Khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.”.
Bạn đang xem bài viết Rút Đơn Yêu Cầu Khởi Kiện Trong Vụ Án Dân Sự: Hậu Quả Pháp Lý Và Những Vấn Đề Cần Trao Đổi trên website Toiyeucogaihalan.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!